Ai là người viết tác phẩm Tự chỉ trích?
Nội dung chính
Ai là người viết tác phẩm Tự chỉ trích?
Tác phẩm Tự chỉ trích là tác phẩm lí luận quan trọng của cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ. Ông viết tác phẩm này vào năm 1939 với bút danh Trí Cường, trong bối cảnh phong trào cách mạng Việt Nam đang đứng trước nhiều thách thức do chính quyền thực dân tăng cường đàn áp, đồng thời nội bộ Đảng cũng tồn tại một số tư tưởng lệch lạc, chưa thống nhất.
Tác phẩm Tự chỉ trích là một tác phẩm lý luận quan trọng, thể hiện tinh thần thẳng thắn, kiên quyết của Nguyễn Văn Cừ trong việc phê bình những hạn chế trong công tác lãnh đạo của Đảng. Ông nhấn mạnh rằng tự phê bình không làm suy yếu tổ chức, mà giúp Đảng vững mạnh hơn. Ông cảnh báo rằng nếu không dám chỉ ra sai lầm và sửa chữa, Đảng sẽ mất đi vai trò lãnh đạo cách mạng.
Tác phẩm cũng đề cao quyền tự do thảo luận, tự do chỉ trích trong Đảng, miễn là được thực hiện theo tinh thần Bôn-sê-vích, không làm giảm uy tín tổ chức. Nguyễn Văn Cừ khẳng định rằng chỉ khi Đảng thường xuyên kiểm điểm, tự chỉnh đốn thì mới giữ vững được vai trò tiên phong.
Tinh thần của "Tự chỉ trích" vẫn mang tính thời sự trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay. Các Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, XII, XIII tiếp tục nhấn mạnh vai trò của tự phê bình và phê bình trong việc ngăn chặn suy thoái tư tưởng, đạo đức. Tác phẩm này không chỉ có ý nghĩa trong bối cảnh lịch sử mà còn là kim chỉ nam quan trọng cho công tác xây dựng Đảng trong thời kỳ đổi mới.
(Thông tin chỉ mang tính chất tham khảo)
Ai là người viết tác phẩm Tự chỉ trích? (Hình từ Internet)
Thời hạn bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm di cảo được quy định như nào?
Căn cứ tại khoản 1 Điều 3 Nghị định 17/2023/NĐ-CP định nghĩa về tác phẩm di cảo như sau:
Tác phẩm di cảo là tác phẩm được công bố lần đầu sau khi tác giả chết.
Đồng thời, căn cứ quy định tại Điều 17 Nghị định 17/2023/NĐ-CP quy định về thời hạn bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm di cảonhư sau:
Thời hạn bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm di cảo
Thời hạn bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm di cảo thực hiện theo quy định tại Điều 27 của Luật Sở hữu trí tuệ.
Dẫn chiếu đến Điều 27 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 được sửa đổi bởi khoản 8 Điều 1 Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi 2009 quy định về thời hạn bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm di cảo được quy định như sau:
- Quyền nhân thân quy định tại các khoản 1, 2 và 4 Điều 19 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 được bảo hộ vô thời hạn.
- Quyền nhân thân quy định tại khoản 3 Điều 19 và quyền tài sản quy định tại Điều 20 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 có thời hạn bảo hộ như sau:
+ Tác phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng, tác phẩm khuyết danh có thời hạn bảo hộ là bảy mươi lăm năm, kể từ khi tác phẩm được công bố lần đầu tiên; đối với tác phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng chưa được công bố trong thời hạn hai mươi lăm năm, kể từ khi tác phẩm được định hình thì thời hạn bảo hộ là một trăm năm, kể từ khi tác phẩm được định hình; đối với tác phẩm khuyết danh, khi các thông tin về tác giả xuất hiện thì thời hạn bảo hộ được tính theo quy định tại điểm b khoản này;
+ Tác phẩm không thuộc loại hình quy định tại điểm a khoản này có thời hạn bảo hộ là suốt cuộc đời tác giả và năm mươi năm tiếp theo năm tác giả chết; trường hợp tác phẩm có đồng tác giả thì thời hạn bảo hộ chấm dứt vào năm thứ năm mươi sau năm đồng tác giả cuối cùng chết;
+ Thời hạn bảo hộ quy định tại điểm a và điểm b khoản 2 Điều 27 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 chấm dứt vào thời điểm 24 giờ ngày 31 tháng 12 của năm chấm dứt thời hạn bảo hộ quyền tác giả.