Chồng lấy trộm tiền là tài sản chung của hai vợ chồng có bị truy tố trách nhiệm hình sự không?
Nội dung chính
Chồng lấy trộm tiền là tài sản chung của hai vợ chồng có bị truy tố trách nhiệm hình sự không?
Theo quy định tại Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định về tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân thì tài sản chung của hai vợ chồng là tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng. Cả hai đều có quyền ngang nhau khi thực hiện việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung theo quy định tại Điều 213 Bộ luật Dân sự 2015.
Tài sản chung này có thể thuộc quyền sở hữu của cả hai vợ chồng, vì vậy nếu một trong hai người tự ý lấy tài sản mà không có sự đồng thuận của người còn lại, hành vi đó có thể bị coi là vi phạm pháp luật.
Theo đó, người chồng có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 173 Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi bởi khoản 34 Điều 1 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017 về tội trộm cắp tài sản, nếu các yếu tố cấu thành tội phạm được chứng minh là lén lút chiếm đoạt tài sản và tài sản bị chiếm đoạt có giá trị từ 2 triệu đồng trở lên.
Tuy nhiên, trong thực tế, vợ chồng có thể giải quyết vấn đề này bằng cách hòa giải hoặc thỏa thuận giữa hai bên mà không cần phải đi đến việc khởi kiện, trừ khi hành vi có tính chất nghiêm trọng hoặc bên bị hại yêu cầu truy tố.
Chồng lấy trộm tiền là tài sản chung của hai vợ chồng có bị truy tố trách nhiệm hình sự không? (Hình từ Internet)
Nếu chồng lấy trộm tiền là tài sản riêng của vợ thì có bị truy tố trách nhiệm hình sự?
Theo Điều 43 Luật Hôn nhân và gia đình 2014, tài sản riêng của vợ chồng là tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn hoặc được tặng cho, thừa kế riêng trong thời kỳ hôn nhân. Tài sản này thuộc quyền sở hữu, sử dụng và định đoạt của người sở hữu tài sản đó. Về nguyên tắc thì tài sản riêng của ai thì sẽ do người đó quản lý, sử dụng, định đoạt. Hành vi xâm phạm đến tài sản riêng là vi phạm pháp luật.
Tài sản của vợ thì dù là vợ chồng, mỗi người vẫn có quyền sở hữu riêng đối với tài sản của mình. Nếu tiền hoặc tài sản này thuộc quyền sở hữu riêng của vợ, và chồng lén lút lấy mà không có sự đồng ý của vợ, thì hành vi này vẫn bị coi là hành vi vi phạm pháp luật.
Tình trạng hôn nhân dù là vợ chồng, việc lấy tài sản của nhau mà không có sự đồng ý của người kia vẫn có thể cấu thành hành vi trộm cắp, nếu hành vi này diễn ra trong bối cảnh không có sự đồng thuận và không có sự quản lý chung đối với tài sản đó.
Tuy nhiên, trong một số trường hợp, hành vi này có thể không bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi:
- Nếu vợ đồng ý cho chồng lấy tiền mà không có hành vi lén lút hoặc chiếm đoạt trái phép, thì không có cơ sở để truy tố hành vi này là trộm cắp.
- Giải quyết nội bộ trong một số trường hợp, gia đình có thể giải quyết vấn đề nội bộ mà không cần can thiệp pháp lý, đặc biệt là nếu tài sản chỉ là một phần nhỏ và mối quan hệ vợ chồng không có tranh chấp nghiêm trọng. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là pháp luật không can thiệp nếu có yêu cầu tố cáo.
Như vậy, hành vi lén lút lấy trộm tiền là tài sản riêng của vợ tùy theo tính chất, mức độ, hậu quả hành vi có thể bị xử lý hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 173 Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi bởi khoản 34 Điều 1 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017 quy định về tội trộm cắp tài sản.
Tội trộm cắp tài sản theo quy định của pháp luật như thế nào?
Căn cứ theo Điều 173 Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi bởi khoản 34 Điều 1 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017 quy định về tội trộm cắp tài sản như sau:
Tội trộm cắp tài sản
1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;
b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 174, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ;
đ) Tài sản là di vật, cổ vật.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
d) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm;
đ) Hành hung để tẩu thoát;
e) Tài sản là bảo vật quốc gia;
g) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
b) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
b) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.
Như vậy, tùy theo mức độ mà người phạm tội bị xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.