Chồng tự mình bán căn hộ Diamond Lotus thuộc tài sản chung của vợ chồng mà không cần sự đồng ý của vợ có được không?
Nội dung chính
Chồng tự mình bán căn hộ Diamond Lotus thuộc tài sản chung vợ chồng mà không cần sự đồng ý của vợ có được không?
Căn cứ quy định tại Điều 213 Bộ luật Dân sự 2015 về sở hữu chung của vợ chồng như sau:
Điều 213. Sở hữu chung của vợ chồng
1. Sở hữu chung của vợ chồng là sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia.
2. Vợ chồng cùng nhau tạo lập, phát triển khối tài sản chung; có quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung.
3. Vợ chồng thỏa thuận hoặc ủy quyền cho nhau chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung.
4. Tài sản chung của vợ chồng có thể phân chia theo thỏa thuận hoặc theo quyết định của Tòa án.
5. Trường hợp vợ chồng lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình thì tài sản chung của vợ chồng được áp dụng theo chế độ tài sản này.
Theo đó tài sản chung phải được vợ chồng thỏa thuận hoặc ủy quyền cho nhau chiếm hữu, sử dụng và định đoạt do nếu đã là tài sản chung thì cả vợ và chồng đều có quyền ngang nhau.
Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 35 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 được hướng dẫn bởi Điều 13 Nghị định 126/2014/NĐ-CP về chiếm hữu, sử dụng tài sản chung của vợ chồng như sau:
Căn cứ theo Điều 35 Luật Hôn nhân và gia đình 2014:
Điều 35. Chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung
1. Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung do vợ chồng thỏa thuận.
2. Việc định đoạt tài sản chung phải có sự thỏa thuận bằng văn bản của vợ chồng trong những trường hợp sau đây:
a) Bất động sản;
b) Động sản mà theo quy định của pháp luật phải đăng ký quyền sở hữu;
c) Tài sản đang là nguồn tạo ra thu nhập chủ yếu của gia đình.
Căn cứ theo Điều 13 Nghị định 126/2014/NĐ-CP:
Điều 13. Chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung của vợ chồng
1. Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung do vợ chồng thỏa thuận. Trong trường hợp vợ hoặc chồng xác lập, thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản chung để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình thì được coi là có sự đồng ý của bên kia, trừ trường hợp quy định tại Khoản 2 Điều 35 của Luật Hôn nhân và gia đình.
2. Trong trường hợp vợ hoặc chồng định đoạt tài sản chung vi phạm quy định tại Khoản 2 Điều 35 của Luật Hôn nhân và gia đình thì bên kia có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu và giải quyết hậu quả pháp lý của giao dịch vô hiệu.
Như vậy, từ các trích dẫn trên, việc chồng tự bán tài sản chung là căn hộ Diamond Lotus mà không cần ý kiến vợ là không đúng quy định pháp luật vì đây là bất động sản và được coi là tài sản chung của vợ chồng nên phải có sự thỏa thuận bằng văn bản giữa hai vợ chồng để định đoạt tài sản.
Bên cạnh đó, Điều 35 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định việc định đoạt tài sản chung là bất động sản phải có sự thỏa thuận bằng văn bản của vợ chồng.
Điều 13 Nghị định 126/2014/NĐ-CP cũng khẳng định, nếu một bên tự ý thực hiện giao dịch liên quan đến bất động sản mà không có sự đồng ý của bên kia thì bên còn lại có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu.
Từ các căn cứ trên, có thể kết luận: người chồng không được tự ý bán căn hộ Diamond Lotus là tài sản chung của vợ chồng nếu không có sự đồng ý bằng văn bản của vợ. Trường hợp tự ý định đoạt, hợp đồng mua bán có nguy cơ bị tuyên vô hiệu, kéo theo hậu quả pháp lý bất lợi cho các bên liên quan.
Chồng tự mình bán căn hộ Diamond Lotus thuộc tài sản chung của vợ chồng mà không cần sự đồng ý của vợ có được không? (Hình từ Internet)
Khi nào căn hộ Diamond Lotus được công nhận là tài sản chung của vợ chồng?
Căn cứ quy định tại Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 về tài sản chung của vợ chồng cụ thể như sau:
Điều 33. Tài sản chung của vợ chồng
1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.
2. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.
3. Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung.
Từ quy định trên, để căn hộ Diamond Lotus được công nhận là tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, cần đáp ứng các điều kiện sau:
[1] Căn hộ phải được tạo lập trong thời kỳ hôn nhân từ thu nhập hợp pháp của vợ chồng;
[2] Là tài sản do vợ chồng cùng đứng tên, được tặng cho chung, thừa kế chung;
[3] Là tài sản mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh căn hộ Diamond Lotus mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì căn hộ đó được coi là tài sản chung
Vì vậy, để được pháp luật công nhận, cần xem xét nguồn gốc hình thành biệt thự, thời điểm sở hữu và các tài liệu liên quan như hợp đồng mua bán, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, văn bản thỏa thuận giữa vợ chồng.
Khi căn hộ Diamond Lotus là tài sản chung của vợ chồng thì phải được sử dụng dựa trên những nguyên tắc nào?
Căn cứ quy định tại Điều 29 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 về nguyên tắc chung về chế độ tài sản của vợ chồng như sau:
Điều 29. Nguyên tắc chung về chế độ tài sản của vợ chồng
1. Vợ, chồng bình đẳng với nhau về quyền, nghĩa vụ trong việc tạo lập, chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung; không phân biệt giữa lao động trong gia đình và lao động có thu nhập.
2. Vợ, chồng có nghĩa vụ bảo đảm điều kiện để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình.
3. Việc thực hiện quyền, nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng mà xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, chồng, gia đình và của người khác thì phải bồi thường.
Theo đó, khi căn hộ Diamond Lotus là tài sản chung của vợ chồng phải được sử dụng dựa trên những nguyên tắc sau đây:
[1] Vợ, chồng bình đẳng với nhau về quyền, nghĩa vụ trong việc tạo lập, chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung; không phân biệt giữa lao động trong gia đình và lao động có thu nhập.
[2] Vợ, chồng có nghĩa vụ bảo đảm điều kiện để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình.
[3] Việc thực hiện quyền, nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng mà xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, chồng, gia đình và của người khác thì phải bồi thường.