BỘ
TÀI CHÍNH
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
190/1998/TT-BTC
|
Hà
Nội, ngày 31 tháng 12 năm 1998
|
THÔNG TƯ
CỦA BỘ TÀI CHÍNH SỐ 190/1998/TT-BTC NGÀY 31 THÁNG 12 NĂM
1998 HƯỚNG DẪN THI HÀNH MỘT SỐ ĐIỂM VỀ CHỦ TRƯƠNG, BIỆN PHÁP ĐIỀU HÀNH DỰ TOÁN
NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC NĂM 1999
Căn cứ Quyết định số
248/1998/QĐ-TTg ngày 24/12/1998 của Thủ tướng Chính phủ về một số chủ trương,
biện pháp điều hành kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà
nước năm 1999;
Bộ Tài chính hướng dẫn cụ thể một số điểm về chủ trương và biện pháp điều
hành ngân sách nhà nước năm 1999 như sau:
I. VỀ PHÂN CẤP
NGÂN SÁCH:
1- Nguồn thu và nhiệm vụ chi của
ngân sách các cấp: Năm 1999 là năm thứ 3 trong thời kỳ ổn định theo Luật Ngân
sách Nhà nước và là năm đầu thực hiện Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
Ngân sách nhà nước. Vì vậy nguồn thu và nhiệm vụ chi của ngân sách mỗi cấp được
thực hiện theo Luật Ngân sách nhà nước và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật Ngân sách nhà nước và các văn bản hướng dẫn Luật.
Đối với ngân sách cấp xã, do
không còn nguồn thu thuế sát sinh nên địa phương cần chủ động xem xét, điều chỉnh
ngân sách để đảm bảo cho cấp xã có nguồn thực hiện được các nhiệm vụ chi.
Riêng nhiệm vụ chi phục vụ công
tác biên giới quốc gia tại các địa phương, trước đây do ngân sách trung ương đảm
nhiệm, từ năm 1999 được chuyển giao về ngân sách địa phương.
2- Tiếp tục thực hiện cơ chế sử
dụng một số nguồn thu để đầu tư xây dựng, cơ sở hạ tầng, phát triển kinh tế -
xã hội cho địa phương:
2.1- Toàn bộ số thu về tiền sử dụng
đất và tiền cho thuế đất, kể cả tiền cho thuê đất của các doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài (trừ tiền cho thuê đất từ các hoạt động thăm dò, khai thác dầu
khí do trung ương quản lý) để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng.
2.2- Toàn bộ số thu về tiền bán
nhà ở thuộc sở hữu nhà nước để đầu tư phát triển quỹ nhà ở và xây dựng các công
trình kết cấu hạ tầng khu dân cư như: hệ thống cấp thoát nước, hệ thống đèn chiếu
sáng, công trình vệ sinh công cộng,...
2.3- Thu xổ số kiến thiết, ngân
sách địa phương được hưởng 100%, trong đó địa phương được sử dụng một phần hoặc
toàn bộ để đầu tư mới, nâng cấp, sửa chữa các công trình giáo dục, y tế, phúc lợi
xã hội theo nguyên tắc: số thu từ 20 tỷ đồng trở xuống, được sử dụng toàn bộ
cho đầu tư; số thu trên 20 tỷ đồng được sử dụng thêm 50% của số thu cao hơn cho
đầu tư.
2.4- Thuế sử dụng đất nông nghiệp,
ngân sách địa phương được hưởng 100%. Việc phân chia nguồn thu giữa ngân sách các
cấp thực hiện theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước (đã sửa đổi, bổ sung),
riêng tỷ lệ phần trăm (%) phân chia cho ngân sách xã, thị trấn, phường, tối thiểu
là 20%. Địa phương có trách nhiệm bố trí nguồn tương ứng với số thu về thuế sử
dụng đất nông nghiệp để đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn, trong đó chú
ý đầu tư xây dựng, sửa cữa các công tình thuỷ lợi, kênh mương nội đồng, hệ thống
đê, kè, các trạm trại nông nghiệp, công tác khuyến nông, khuyến ngư,... đưa các
tiến bộ khoa học kỹ thuật tiên tiến vào phục vụ sản xuất, chế biến nông lâm sản,
đổi mới cơ cấu cây trồng, vật nuôi,...
2.5- Thuế tài nguyên rừng, kể cả
tiền bán cây đứng (nếu có) địa phương được sử dụng toàn bộ cho đầu tư, khoanh
nuôi, bảo vệ, trồng mới rừng và cải tạo rừng, khuyến lâm, trồng cây phân
tán,...
2.6- Nguồn thu quảng cáo truyền
hình: Được sử dụng toàn bộ số thu theo phân cấp để đầu tư nâng cấp, cải tạo, sửa
chữa, mua sắm thiết bị cho đài truyền hình theo quy định tại Thông tư số
81/TC/HCSN ngày 23/12/1996 của Bộ Tài chính.
2.7- Toàn bộ số thu từ hoạt động
chống buôn lậu do lực lượng chống buôn lậu các cấp bắt giữ và xử lý nộp ngân
sách, ngân sách địa phương được sử dụng cho các nội dung quy định tại Thông tư
số 09/1998/TT-BTC ngày 20/01/1998 và Thông tư số 47/1998/TT-BTC ngày 9/4/1998 của
Bộ Tài chính.
Việc phân cấp và phân chia các
nguồn thu trên được thực hiện theo các quy định của Luật Ngân sách nhà nước (đã
sửa đổi, bổ sung). Nghị định số 51/1998/NĐ-CP ngày 18/7/1998 của Chính phủ và
Thông tư hướng dẫn số 103/1998/TT-BTC ngày 18/7/1998 của Bộ Tài chính; trong
phân cấp chú ý tạo điều kiện cho cấp huyện, xã chủ động cân đối từ các nguồn
thu trên địa bàn, hạn chế mức bổ sung từ ngân sách cấp trên. Tỉnh có trách nhiệm
bố trí nguồn tương ứng với số thu của các khoản thu nói trên để đầu tư theo
đúng mục tiêu quy định theo danh mục dự án được tỉnh duyệt nhằm đảm bảo sự phát
triển cân đối hợp lý giữa các vùng trong tỉnh và tỉnh có trách nhiệm chỉ đạo
chi đúng mục đích; việc phân cấp quản lý đầu tư xây dựng cơ bản thực hiện theo quy
định hiện hành và theo quyết định phân cấp của tỉnh. Toàn bộ các nguồn trên phải
đưa vào dự toán thu, chi của địa phương và phải mở sổ sách theo dõi chi tiết
riêng từng nguồn để bố trí chi theo dự án, theo từng nội dung công việc, đảm bảo
chi đúng mục đích, tiết kiệm và hiệu quả đồng thời phù hợp với tiến độ và khả
năng thu phát sinh, tránh tình trạng chi quá khả năng thu, gây bị động trong điều
hành ngân sách. Kết thúc năm ngân sách, trường hợp số thu của từng nguồn không
phù hợp với số chi phải theo dõi để xử lý tiếp vào năm sau nhằm đảm bảo nguyên
tắc số chi tối thiểu phải bằng số thu. Chậm nhất đến 30/1 năm sau địa phương phải
báo cáo Bộ Tài chính kết quả thực hiện các công trình, dự án từ từng nguồn thu
trên.
3- Thưởng vượt dự toán thu:
3.1- Thưởng vượt dự toán thu cho
các địa phương về các khoản:
+ Thuế tiêu thu đặc biệt hàng nhập
khẩu, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu;
+ Thuế tiêu thu đặc biệt hàng sản
xuất trong nước (trừ các khoản thuế tiêu thụ đặc biệt ngân sách địa phương được
hưởng 100%).
3.2- Điều kiện và nguyên tắc xét
thưởng thực hiện theo quy định tại Thông tư số 103 TC/NSNN ngày 18/7/1998 của Bộ
Tài chính.
3.3- Mức hưởng theo quyết định của
Thủ tướng Chính phủ.
3.4- Số thưởng vượt dự toán thu
trên đây được sử dụng cho mục đích đầu tư xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng
kinh tế - xã hội của địa phương. Việc sử dụng tiền thưởng cụ thể để đầu tư cho
từng công trình và thưởng cho ngân sách cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã do Uỷ ban
nhân dân tỉnh quyết định, báo cáo Hội đồng nhân dân tỉnh.
3.5- Không thưởng vượt dự toán
thu về thuế giá trị gia tăng hàng nhập khẩu.
II. VỀ THU
NGÂN SÁCH:
Căn cứ mức thu Thủ tướng Chính
phủ giao, các Bộ, cơ quan trung ương, các tỉnh và Tổng cục Hải quan cần khẩn
trương làm tốt công tác giao dự toán thu cho các đơn vị trực thuộc và cấp dưới.
Mức giao tối thiểu phải bằng mức Thủ tướng Chính phủ giao và cần giao chỉ tiêu
thu phấn đấu tăng từ 5% đến 10% mức Thủ tướng Chính Phủ giao.
Để thực hiện đạt và vượt dự toán
thu, trong phạm vi và quyền hạn của mình, các cấp, các ngành cần có biện pháp
thiết thực:
1- Tập trung chỉ đạo ngay từ đầu
năm việc thực hiện các luật thuế mới, nhất là thuế giá trị gia tăng. Chủ động
giải quyết những khó khăn, vướng mắc nhằm ổn định sản xuất kinh doanh cho các
doanh nghiệp khi thực hiện Luật thuế giá trị gia tăng. Thực hiện các biện pháp
quản lý thu thuế nhằm chống thất thu, trốn thuế, buôn lậu và gian lận thương mại...,
bảo hộ hợp lý sản xuất kinh doanh trong nước.
2- Theo dõi sát tình hình biến động
của khủng khoảng kinh tế - tài chính tiền tệ khu vực, thế giới, nhất là tính
hình tỷ giá và giá cả hàng hoá để chủ động lên kế hoạch phát triển sản xuất
kinh doanh; có cơ chế, chính sách hợp lý nhằm tập trung tháo gỡ khó khăn cho
các doanh nghiệp, tạo điều kiện đẩy mạnh sản xuất kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm.
3- Đẩy mạnh việc sắp xếp lại
doanh nghiệp nhà nước, thực hiện cổ phần hoá một cách vững chắc từ đó huy động
thêm vốn phát triển sản xuất kinh doanh, giải quyết việc làm và thu nhập cho
người lao động, tập trung vốn cho các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả. Hướng dẫn,
chỉ đạo các doanh nghiệp sử dụng phần thu nhập tăng thêm để đầu tư đổi mới thiết
bị công nghệ, trên cơ sở đó để tăng thu cho ngân sách.
4- Đối với các hộ sản xuất kinh
doanh tiểu thủ công nghiệp, buôn bán nhỏ, phải xác định lại mức thuế hợp lý,
công bố ổn định và công khai mức thuế 6 tháng đến 1 năm; đồng thời kiểm soát và
xử phạt đối với những hộ cố tình trốn lậu thuế.
5- Tăng cường quản lý đối với
các khoản thu sự nghiệp, các khoản thu phí, lệ phí,... Không thực hiện ghi thu,
ghi chi đối với các trường hợp đơn vị tự ý chiếm dụng nguồn thu để chi.
6- Trong quá
trình thực hiện thu thuế giá trị gia tăng, nếu số thu thuế giá trị gia tăng
tăng hoặc giảm so với dự toán đã giao thì Bộ Tài chính thực hiện điều chỉnh
theo nguyên tắc:
- Thuế giá trị gia tăng giảm so
với dự toán, điều chỉnh tăng mức bổ sung đảm bảo nguồn cho địa phương thực hiện
nhiệm vụ chi theo dự toán được giao.
- Thuế giá trị gia tăng tăng so
vói dự toán:
+ Tăng trong phạm vi 5% so với dự
toán, ngân sách địa phương được hưởng toàn bộ phần tăng thêm theo tỷ lệ điều tiết
và Trung ương không giảm trừ số bổ sung theo dự toán.
+ Tăng trên 5% so với dự toán,
thực hiện điều tiết giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương theo quy
định, nhưng phần tăng thêm trên 5% (phần ngân sách địa phương được hưởng) phải
giảm trừ tương ứng vào số bổ sung hoặc các khoản ngân sách Trung ương phải chuyển
về cho địa phương.
III. VỀ CHI
NGÂN SÁCH VÀ TIẾT KIỆM CHI:
1- Về chi ngân sách:
1.1- Chính phủ giao dự toán chi
ngân sách năm1999 cho các Bộ, cơ quan trung ương bằng mức 90% dự toán chi thường
xuyên theo phương án phân bổ ngân sách Trung ương đã được Uỷ ban thường vụ Quốc
hộ thông qua (trừ các khoản chi tiền lương và có tính chất lương; chi bằng nguồn
vốn viện trợ, bằng vốn vay nước ngoài). Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương thực hiện giao dự toán chi ngân sách năm 1999 cho các đơn vị
trực thuộc bằng mức 90% dự toán chi thường xuyên (trừ các khoản chi tiền lương
và có tính chất lương; chi bằng nguồn vốn viện trợ, bằng vốn vay nước ngoài) và
cho ngân sách cấp dưới bằng mức 100% theo phương án phân bổ dự toán chi ngân
sách địa phương đã được Hội đồng nhân dân quyết định. Căn cứ vào nguyên tắc
trên, Uỷ ban nhân dân huyện giao cho các đơn vị trực thuộc bằng 90% và cho ngân
sách cấp dưới bằng mức 100% theo phương án phân bổ dự toán chi ngân sách đã được
Hội đồng nhân dân quyết định. Nguồn giữ lại 10% nêu trên phải được quản lý chặt
chẽ ngay từ đầu năm và chỉ được sử dụng khi có chủ trương của Chính phủ,... Uỷ
ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tổng hợp kết quả giữ lại
10% ở địa phương báo cáo Bộ Tài chính trước ngày 15/02/1999.
1.2- Mức chi do Trung ương ban
hành là mức bình quân theo khu vực sử dụng để phân bổ ngân sách cho các địa phương.
Vì vậy, khi phân bổ mức chi cho cấp dưới và đơn vị, trên cơ sở mức chi chung do
Trung ương ban hành, căn cứ vào tính chất công việc và đặc điểm cụ thể của từng
cấp, từng đơn vị, tỉnh, thành phố trực thuọc Trung ương có thể vận dụng quy định
mức chi cho phù hợp.
1.3- Khi quyết định ngân sách địa
phương, cần xác định các lĩnh vực ưu tiên:
+ Trong xây dựng cơ bản tập
trung cho đầu tư nông nghiệp và phát triển nông thôn, trong đó chú ý các công
trình thuỷ lợi, đê điều, trường học,... hạn chế bố trí khởi công mới các công
tình nhóm B, C. Việc bố trí vốn cho các dự án nhóm C phải tuân thủ nguyên tắc:
tập trung, không dàn trải, bố trí đủ vốn đầu tư để bảo đảm có 70% dự án hoàn
thành trong năm; dự án nào chưa đủ thủ tục xây dựng cơ bản thì không bố trí vốn;
đình hoãn các công trình chưa thật cấp bách, không hiệu quả, nếu bố trí vốn thì
cơ quan tài chính có quyền không cấp phát.
+ Trong chi thường xuyên, tập
trung cho các lĩnh vực giáo dục đào tào, khoa học và công nghệ, văn hoá thông
tin.
+ Bố trí dự phòng ngân sách ở mức
cần thiết để chủ động ứng phó với các diễn biến xấu có thể xảy ra.
1.4- Trên cơ sở dự toán chi được
giao, các đơn vị dự toán cấp I phải phân bổ và giao dự toán cho các đơn vị sử dụng
ngân sách chi tiết theo Mục lục Ngân sách Nhà nước; cơ quan Tài chính chủ động
phối hợp với Kho bạc Nhà nước cùng cấp hướng dẫn cụ thể cho các cơ quan, đơn vị
dự toán thuộc cấp mình thực hiện theo đúng quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một
số điều của Luật Ngân sách nhà nước và các văn bản hướng dẫn của Bộ Tài chính,
tránh gây ách tắc cho việc thực hiện các nhiệm vụ được giao. Thực hiện tốt việc
kiểm soát chi đối với các đơn vị sử dụng ngân sách.
Trong quá trình thực hiện, điều
hành, đảm bảo chi đúng mục tiêu, đúng đối tượng và theo đúng dự toán được duyệt.
Thủ trưởng các Bộ, ngành, Chủ tịch UBND các cấp và Thủ trưởng các cơ quan, các
đơn vị cơ sở chịu trách nhiệm về quản lý, sử dụng có hiệu quả kinh phí ngân
sách nhà nước. Những khoản chi đã ghi trong dự toán và có nguồn thu đảm bảo,
các Bộ, ngành, địa phương không được tuỳ tiện cắt giảm. Cơ quan tài chính các cấp
có trách nhiệm cấp phát theo tiến độ thực hiện công việc, tránh cấp dồn vào cuối
quý, cuối năm (kể cả cấp bổ sung cho ngân sách cấp dưới). Trường hợp thu không
đạt dự toán, ngân sách từng cấp phải chủ động sắp xếp lại chi, giảm chi tương ứng,
chú ý giảm những khoản chưa thiết yếu trước. Nếu tăng thu, phần tăng thu được sử
dụng tăng chi, trong đó ưu tiên cho lĩnh vực thuỷ lợi, nông nghiệp, giáo dục -
đào tạo, khoa học công nghệ, văn hoá và những nhiệm vụ chi thiết yếu khác.
1.5- Các cơ quan, đơn vị sử dụng
kinh phí ngân sách nhà nước phải lập dự toán chi hàng quý (chia ra tháng), hết
quý có báo cáo quyết toán hoặc tình hình sử dung kinh phí cho cơ quan tài chính
cung cấp theo đúng quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ngân
sách nhà nước; các trường hợp không có báo cáo quý trước mà không có lý do
chính đáng thì cơ quan tài chính có quyền ngừng cấp phát ngân sách quý tiếp
theo (trừ các khoản chi lương và có tính chất lương) cho đến khi các đơn vị này
có báo cáo.
1.6- Những công việc phát sinh
ngoài kế hoạch (kể cả chi cứu đói, khắc phục hậu quả thiên tai,...) các Bộ,
ngành, địa phương và đơn vị phải chủ động sắp xếp chi trong phạm vi nguồn thu
và tổng mức kinh phí được giao để xử lý.
1.7- Đối với chi đầu tư xây dựng
cơ bản, đảm bảo cấp phát theo kế hoạch và chỉ cấp phát cho khối lượng thực hiện
trong năm kế hoạch đủ thủ tục thanh toán, công trình nào, hạng mục nào không thực
hiện được trong năm nếu cần thiết thì bố trí vào dự toán năm sau. Trong cấp
phát, ưu tiên các công trình thuộc các lĩnh vực thuỷ lợi, nông nghiệp, giáo dục
- đào tạo,....
1.8- Ngay từ đầu năm, các cấp
các ngành và các địa phương cần tổ chức, chỉ đạo thực hiện tốt công tác khắc phục
hậu quả thiên tai, lũ lụt,... năm 1998. Tập trung đầu tư, tu bổ các công tình
thuỷ lợi, đê điều, giao thông,... để sẵn sàng ứng phó với mọi diễn biến xấu xảy
ra trong mùa mưa bão năm 1999.
2- Về chương trình mục tiêu:
2.1- Đối với 8 chương trình mục
tiêu quốc gia và một số chương trình mục tiêu không phải là chương trình mục
tiêu quốc gia nhưng cần tập trung cao sự chỉ đạo, quản lý thì cơ chế kế hoạch
và cấp phát vẫn thực hiện theo Quyết định số 531/TTg ngày 08/8/1996 của Chủ tướng
Chính phủ.
2.2- Đối với các chương trình mục
tiêu không phải là chương trình mục tiêu quốc gia còn lại, việc cấp phát cho
các chương trình mục tiêu này thực hiện bằng hình thức cấp phát theo hình thức
cấp kinh phí uỷ quyền hoặc cấp phát bổ sung theo mục tiêu cho ngân sách địa
phương.
Căn cứ dự toán chi đã được Thủ
tướng Chính phủ giao và Bộ Tài chính giao hướng dẫn, các cơ quan quản lý chương
trình mục tiêu chủ trì phối hợp với Sở Tài chính - Vật giá, Sở Kế hoạch và Đầu
tư lập dự kiến phân bổ báo cáo Uỷ ban nhân dân tỉnh, trình Hội đồng nhân dân tỉnh
quyết định và địa phương tổ chức thực hiện giao dự toán cho cấp dưới và các đơn
vị ngay trong tháng 1/1999.
2.3- Đối với chương trình phát
triển kinh tế - xã hội các xã nghèo đặc biệt khó khăn:
- Căn cứ vào dự toán chi ngân
sách được Chính phủ giao và danh sách xã nghèo trên địa bàn đã được phê duyệt,
Uỷ ban nhân dân tỉnh xác định mức kinh phí cụ thể cho từng xã và thông báo công
khai đến từng xã mức chi cho các chương trình mục tiêu năm 1999, trong đó mức
chi xây dựng cơ bản phải đảm bảo mỗi xã xây dựng xong một công trình thiết yếu
như: thuỷ lợi, nước sinh hoạt, giao thông, trường học, trạm xá, điện, chợ. Uỷ
ban nhân dân xã căn cứ vào tình hình thực tế của xã, xác định loại công trình cần
xây dựng trình Hội đồng nhân dân xã duyệt và báo cáo cấp trên. Uỷ ban nhân dân
tỉnh tổng hợp báo cáo Thủ tướng Chính phủ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính
trước ngày 31/3/1999.
- Trên cơ sở báo cáo của Uỷ ban
nhân dân tỉnh, Bộ Tài chính tổ chức cấp phát kinh phí theo tiến độ thực hiện
theo đúng danh mục đã được Uỷ ban nhân dân tỉnh phê duyệt. Việc quy định trình
tự, thủ tục cấp phát và quản lý kinh phí cho xã nghèo đặc biệt khó khăn, sẽ có
văn bản hướng dẫn riêng.
- Ngoài nguồn ngân sách Trung
ương chuyển về, địa phương cần chủ động sắp xếp ngân sách để bổ sung thêm nguồn
lực cho các xã nghèo đặc biệt khó khăn nhằm thực hiện tốt hơn các mục tiêu đã đề
ra. Định kỳ hàng quý, Uỷ ban nhân dân tỉnh có trách nhiệm báo cáo Thủ tướng
Chính phủ, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư tình hình tổ chức thực hiện, những
khó khăn vướng mắc cần tháo gỡ.
3- Về tiết kiệm chi:
Nhằm sử dụng tiết kiệm, có hiệu
quả kinh phí từ ngân sách Nhà nước, ngoài việc giữ lại 10% theo quy định; tiếp
tục thực hiện chủ trương triệt để tiết kiệm trong chi tiêu ngân sách, sử dụng
tài sản công quỹ. Thực hiện nghiêm túc việc quy định tại Quyết định số
248/1998/QĐ-TTg ngày 24/12/1998 của Thủ tướng Chính phủ và quy định tại các
Thông tư số 93/1998/TT-BTC, Thông tư số 94/1998/TT-BTC ngày 30/6/1998 của Bộ
Tài chính,... về chế độ công tác phí, chế độ chi tiêu hội nghị,... Tổ chức thực
hiện các biện pháp tiết kiệm gắn liền với công khai hoá ngân sách.
3.1- Các Bộ, cơ quan ở trung
ương và địa phương cần chủ động sắp xếp và bố trí, điều chuyển hợp lý trụ sở
làm việc và phương tiện hiện có để phục vụ tốt công tác được giao. Không xây dựng
mới trụ sở làm việc và hội trường... (trừ các địa phương mới chia tách và các
trường hợp đã bố trí trong kế hoạch đầu năm). Căn cứ vào tiêu chuẩn định mức sử
dụng xe ô tô, thực hiện điều hoà từ nơi thừa sang nơi thiếu, các Bộ, các địa
phương báo cáo Bộ Tài chính nhu cầu mua ô tô để Bộ Tài chính tổng hợp trình Thủ
tướng Chính phủ quyết định.
3.2- Các Bộ, ngành, địa phương
và các cơ quan đơn vị có trách nhiệm thực hiện và giám sát việc thực hiện đúng
chế độ chính sách, chế độ chi tiêu theo quy định của nhà nước. Nghiêm cấm các
cơ quan hành chính sự nghiệp tự ban hành, thực hiện chế độ chi tiêu ngoài quy định
của nhà nước; sử dụng xe ô tô công vào việc riêng của cá nhân, dùng xe ô tô
công để đưa đón cán bộ không đúng tiêu chuẩn quy định, dùng tiền công quỹ để
làm qua biếu, tặng, lợi dụng hội, họp để tổ chức đi nghỉ,... lợi dụng sự chủ quản
để tự ý điều động tài sản, tiền bạc của các doanh nghiệp để sử dụng chi tiêu
cho bộ phận hành chính của cơ quan mình; lợi dụng uy tín để đi vay và cho vay,
chiếm dụng các khoản phải nộp ngân sách nhà nước.
3.3- Căn cứ vào mức hỗ trợ được
thông báo, các Tổng công ty có trách nhiệm sắp xếp lại các hoạt động sự nghiệp
(đào tạo, y tế, nghiên cứu khoa học, sự nghiệp kinh tế) và thực hiện hạch toán
các chi phí cho các hoạt động trên vào chi phí sản xuất kinh doanh theo chế độ
quy định.
3.4- Trong phân bổ ngân sách và
quá trình tổ chức điều hành, thực hiện tiết kiệm và giảm chi so với thực hiện
năm 1998 đối với các khoản sau:
+ Giảm 30% so với thực hiện năm
1998 về chi công tác phí trong nước. Giảm 40% kinh phí đoàn ra, đoàn vào.
+ Giảm 60-70% chi mua sắm trang
thiết bị, sửa chữa, hội nghị, tiếp khách, khánh tiết, lễ tân của các cơ quan
hành chính sự nghiệp.
3.5- Các Bộ, ngành và các địa
phương, đơn vị có sử dụng kinh phí từ ngân sách nhà nước chủ động triển khai
các biện pháp tiết kiệm, đăng ký với cơ quan cấp trên và cơ quan tài chính các
khoản tiết kiệm, mức tiết kiệm. Các Bộ, địa phương tổng hợp báo cáo Bộ Tài
chính về mức và biện pháp tiết kiệm trước ngày 1/03/1999 để Bộ Tài chính tổng hợp
báo cáo Chính Phủ và Quốc hội.
VI. TỔ CHỨC
THỰC HIỆN:
Thông tư này có hiệu lực thi
hành từ ngày 01/01/1999, các Bộ, ngành, UBND các tỉnh căn cứ vào Quyết định số
248/1998/QĐ-TTg ngày 24/12/1998 của Thủ tướng Chính phủ và Thông tư hướng dẫn này
để tổ chức hướng dẫn các cơ quan, đơn vị và các cấp chính quyền địa phương thực
hiện.