BỘ TÀI CHÍNH
********
|
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số: 09/2003/TT-BTC
|
Hà Nội, ngày 27 tháng 1 năm 2003
|
THÔNG TƯ
Căn cứ Nghị quyết số
09/2002/QH11 ngày 28/11/2002 của Quốc hội Khóa X, Kỳ họp thứ 10 về dự toán ngân
sách nhà nước năm 2003;
Căn cứ Nghị quyết số 215/NQ/UBTVQH11 ngày 21/12/2002 của Uỷ ban thường vụ Quốc
hội về phân bổ dự toán ngân sách trung ương năm 2003;
Căn cứ Nghị quyết số 02/2003/NQ-CP ngày 17/01/2003 của Chính phủ về một số
chủ trương, giải pháp chủ yếu cần tập trung chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ phát triển
kinh tế - xã hội năm 2003;
Căn cứ Nghị định số 03/2003/NĐ-CP ngày 18/01/2003 của Chính phủ về việc điều
chỉnh tiền lương, trợ cấp xã hội và đổi mới một bước cơ chế quản lý tiền lương;
Căn cứ Quyết định số 181/2002/QĐ-TTg ngày 23/12/2002 của Thủ tướng Chính phủ
về việc giao chỉ tiêu kế hoạch và dự toán ngân sách nhà nước năm 2003;
Bộ Tài chính hướng dẫn một số điểm về chủ trương và biện pháp điều hành ngân
sách nhà nước năm 2003 như sau:
1/ Về phân cấp
nguồn thu, nhiệm vụ chi ngân sách:
- Năm 2003 tiếp tục thực hiện ổn
định nguồn thu, nhiệm vụ chi và tỷ lệ phân chia nguồn thu giữa ngân sách Trung
ương và ngân sách địa phương như năm 2002. Riêng Thành phố Hồ Chí Minh tỷ lệ
phân chia nguồn thu thực hiện theo Quyết định số 181/2002/QĐ-TTg ngày
23/12/2002 của Thủ tướng Chính phủ.
- Từ năm 2003, thực hiện cơ chế
bổ sung có mục tiêu từ ngân sách Trung ương cho địa phương thay cơ chế đầu tư
trở lại (hoặc cấp lại) theo số thu từ các nguồn thu giao quyền sử dụng đất, tiền
thuê đất, tiền bán nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước, thuế sử dụng đất nông nghiệp,
thuế tài nguyên rừng, tiền bán cây đứng, toàn bộ hoặc một phần thuế tài nguyên
nước thuỷ điện, thu xổ số kiến thiết và thu quảng cáo truyền hình để địa phương
có nguồn xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng, công trình phúc lợi xã hội,
phát triển quỹ nhà, đầu tư cho nông nghiệp nông thôn, cải tạo giống cây trồng,
vật nuôi, tái tạo quỹ rừng, đầu tư vùng lòng hồ, phát triển truyền hình. Riêng
thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng và các tỉnh Bà rịa - Vũng Tàu, Đồng Nai, Bình
Dương, ngoài phần ngân sách trung ương bổ sung theo mục tiêu và bố trí từ ngân
sách địa phương để đảm bảo mức đầu tư thực hiện các nhiệm vụ trên tương ứng với
nguồn thu được để lại (hoặc cấp lại) đầu tư theo mức đã được giao tại điểm 3 Mục
I phần A - Biểu số 1 ban hành kèm theo Quyết định số 158/2002/QĐ-BTC ngày
24/12/2002 của Bộ Tài chính về giao dự toán thu, chi ngân sách nhà nước năm 2003.
2/ Phân bổ và
giao dự toán ngân sách:
Căn cứ dự toán thu, chi ngân
sách nhà nước năm 2003 Thủ tướng Chính phủ giao, các Bộ, cơ quan Trung ương,
các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cần khẩn trương triển khai công tác
giao nhiệm vụ thu, chi ngân sách cho các đơn vị trực thuộc và chính quyền cấp
dưới; chậm nhất phải hoàn thành trong tháng 01 năm 2003. Trường hợp Hội đồng
nhân dân cấp tỉnh chưa quyết định dự toán ngân sách, Uỷ ban nhân dân cần có
phương án tạm giao dự toán ngân sách để các cấp, các đơn vị triển khai thực hiện.
Cùng với việc giao nhiệm vụ thu,
chi ngân sách, các Bộ, cơ quan Trung ương, các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương có trách nhiệm ban hành những giải pháp, biện pháp và hướng dẫn cụ thể nhằm
đảm bảo cho đơn vị và cấp dưới phân bổ ngân sách phù hợp với định hướng, mục
tiêu đã được cấp trên quyết định. Địa phương có trách nhiệm báo cáo kết quả
phân bổ ngân sách về Bộ Tài chính theo đúng qui định tại Thông tư số
103/1998/TT-BTC ngày 18/7/1998 của Bộ Tài chính. Trường hợp sau ngày
20/01/2002, Hội đồng nhân dân chưa thông qua thì tạm thời báo cáo phương án Uỷ
ban nhân dân tỉnh tạm giao.
2.1/. Về thu ngân sách nhà nước
- Ngay từ đầu tháng 01 năm 2003
Các Bộ, cơ quan Trung ương, các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phải triển
khai giao nhiệm vụ thu ngân sách cho các đơn vị trực thuộc, chính quyền cấp dưới
không thấp hơn thực hiện 2002 và đảm bảo mức tăng tối thiểu 5% so với mức dự
toán thu Thủ tướng Chính phủ giao.
- Mức thu ngân sách giao cho các
đơn vị trực thuộc và cấp dưới cần căn cứ khả năng tăng trưởng kinh tế cụ thể ở
địa phương, nỗ lực đấu tranh chống thất thu và gian lận thương mại, các chế độ,
chính sách thu của nhà nước.
-Từ năm 2003 thực hiện miễn thuế
sử dụng đất nông nghiệp trong hạn điền cho các hộ nông dân để tăng sức mua,
tăng đầu tư phát triển sản xuất, nâng cao đời sống. Các địa phương cần tăng cường
công tác chỉ đạo, kiểm tra, giám sát không để tình trạng lạm thu khi Nhà nước
ban hành chính sách miễn thuế cho hộ nông dân.
- Từ 01/01/2003 thực hiện điều
chỉnh mức thu thuế môn bài; vì vậy, các cơ quan thuế các tỉnh, thành phố cần rà
soát lại toàn bộ cơ sở hoạt động sản xuất kinh doanh trên địa bàn, toàn bộ
doanh thu, thu nhập thực tế để phân loại và xếp bậc cho phù hợp với thực tế
kinh doanh của đơn vị theo qui định tại Thông tư số 96/2002/TT-BTC ngày
24/10/2002 của Bộ Tài chính.
- Để phù hợp với đặc điểm tổ chức
kinh doanh xăng dầu, từ ngày 01/01/2003, các đơn vị thực hiện đăng ký, kê khai,
nộp phí xăng dầu vào ngân sách nhà nước theo đúng qui định tại Thông tư số
70/2002/TT-BTC ngày 19/8/2002 của Bộ Tài chính.
2.2/ Về chi ngân sách nhà nước.
- Để tập trung nguồn lực thực hiện
cải cách tiền lương, thúc đẩy cải cách hành chính, tăng cường hiệu lực, hiệu quả
quản lý của bộ máy hành chính nhà nước, từ năm 2003 các Bộ, cơ quan trung ương,
các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, các đơn vị cần sắp xếp hợp lý các
nhiệm vụ chi, bố trí ngân sách để thực hiện chế độ tiền lương mới:
+ Các Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ
quan thuộc Chính phủ, cơ quan khác ở Trung ương và các địa phương, trong phân bổ
ngân sách phải xác định mức và giao nhiệm vụ thực hiện tiết kiệm 10% chi thường
xuyên (không kể tiền lương và các khoản có tính chất lương) đối với từng cơ
quan hành chính, đơn vị sự nghiệp; đảm bảo không thấp hơn mức tiết kiệm được cơ
quan có thẩm quyền thông báo. Ngân sách các cấp không giữ lại khoản tiết kiệm
10% chi thường xuyên nêu trên.
+ Các đơn vị sự nghiệp có thu
(bao gồm cả các đơn vị đã thực hiện cơ chế tài chính theo Nghị định số
10/2002/NĐ-CP ngày 16/01/2002 của Chính Phủ) sử dụng tối thiểu 40% số thu ngân
sách được nhà nước cho để lại ( riêng viện phí mức tối thiểu là 35%) để thực hiện
tiền lương tăng thêm; các cơ quan hành chính thực hiện cơ chế khoán chi theo
Quyết định số 192/2001/QĐ-TTg ngày 17/12/2001 của Thủ tướng Chính phủ có nguồn
thu được để lại phải sử dụng tối thiểu 40% số thu được để lại để thực hiện tiền
lương tăng thêm.
+ Ngân sách các cấp chính quyền
địa phương dành tối thiểu 50% số tăng thu ngân sách năm 2002 và năm 2003 để thực
hiện chế độ tiền lương mới theo nguyên tắc sau:
Đối với số tăng thu năm 2002:
Căn cứ kết quả thực hiện thu ngân sách của từng cấp đến 31/12/2002 và dự toán
thu ngân sách năm 2002 đã được Hội đồng nhân dân quyết định (không kể nguồn thu
được để lại đầu tư theo qui định) để xác định mức tăng thu .
Đối với số tăng thu năm 2003:
Căn cứ dự toán thu ngân sách năm 2003 và năm 2002 đã được cơ quan có thẩm quyền
giao để xác định mức tăng thu.
Sau khi thực hiện các biện pháp
nêu trên mà không đủ nguồn thì ngân sách nhà nước (đối với đơn vị dự toán) và
ngân sách cấp trên (đối với cấp ngân sách) hỗ trợ để bảo đảm nguồn thực hiện chế
độ tiền lương mới năm 2003. Trường hợp nguồn làm lương xác định theo nguyên tắc
trên lớn hơn nhu cầu chi thực hiện tiền lương mới theo qui định, thì đơn vị, cấp
ngân sách được phép sử dụng phần chênh lệch để tăng đầu tư và tăng chi cho một
số nhiệm vụ cấp thiết của đơn vị, địa phương theo đúng chế độ qui định hiện
hành.
Ngoài ra, trong quá trình tổ chức
thực hiện ngân sách 2003, nếu có tăng thu so với dự toán giao thì các cấp chủ động
dành tối thiểu 50% số tăng thu so dự toán 2003 được cấp trên giao để tạo nguồn
thực hiện cải cách tiền lương năm 2003 và năm sau. Do đó trong phân bổ và điều
hành ngân sách, Hội đồng nhân dân các cấp chỉ được phân bổ tăng chi ngân sách địa
phương trong phạm vi 50% số thực tăng thu so dự toán cấp trên giao.
- Căn cứ nguồn thu, nhiệm vụ chi
được giao, các Bộ, cơ quan Trung ương và địa phương thực hiện sắp xếp hợp lý
các nhiệm vụ chi, trong đó ưu tiên bố trí vốn cho đầu tư phát triển, đảm bảo vốn
đối ứng các dự án ODA, vốn chuẩn bị đầu tư, các dự án phòng chống thiên tai và
khắc phục hậu quả thiên tai; bổ sung vốn cho các doanh nghiệp nhà nước hoạt động
trong lĩnh vực thương mại ở miền núi, hải đảo và vùng đồng bào dân tộc; chi
giáo dục đào tạo và dạy nghề; thành lập quỹ khám chữa bệnh cho người nghèo; chi
khoa học công nghệ; đầu tư cho các vùng có nhiều khó khăn...Trong phân bổ và
giao nhiệm vụ chi ngân sách cho đơn vị trực thuộc và cấp dưới cần chú ý:
+ Từ năm 2003, không thực hiện
trợ giá hoặc cấp cho không máy thu thanh cho đồng bào sống ở vùng sâu, vùng xa
mà sử dụng kinh phí này hỗ trợ các địa phương để đầu tư phát triển các trạm
phát thanh, truyền thanh xã, cụm dân cư ở các tỉnh miền núi, vùng đồng bào dân
tộc.
+ Chuyển việc thực hiện cấp
không thu tiền thuốc chữa bệnh cho các đối tượng theo quy định Quyết định số
168/2001/QĐ-TTg ngày 30/10/2001, Công văn số 941/CP-KTTH ngày 19/10/2001 và Quyết
định 853/QĐ-TTg ngày 10/7/2001 của Thủ tướng Chính phủ; sang thực hiện khám chữa
bệnh cho người nghèo từ Quỹ khám chữa bệnh cho người nghèo theo Quyết định số
139/2002/QĐ-TTg ngày 15/10/2002 của Thủ tướng Chính phủ. Đồng thời chuyển kinh
phí đã được bổ sung để thực hiện khám chữa bệnh miễn phí cho các đối tượng theo
qui định tại Quyết định số 168/2001/QĐ-TTg ngày 30/10/2001 và Quyết định số
186/2001/QĐ-TTg ngày 07/12/2001 của Thủ tướng Chính phủ sang quỹ này để thực hiện
khám chữa bệnh cho người nghèo.
+ Bố trí đủ nguồn để trả các khoản
nợ đến hạn (vay đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, vay thực hiện nhiệm vụ kiên cố
hóa kênh mương,...); đồng thời, có biện pháp chấn chỉnh, kiểm tra, kiểm soát chặt
chẽ việc vay và sử dụng tiền vay ở các đơn vị, cấp dưới, đảm bảo các khoản vay
phải đúng qui định và sử dụng đúng mục đích, trả nợ đúng hạn.
+ Đối với chương trình giống cây
trồng, vật nuôi và hỗ trợ vùng sản xuất muối, địa phương chủ động tổ chức thực
hiện trong phạm vi ngân sách địa phương theo các dự án được cấp có thẩm quyền
phê duyệt.
- Ngoài ra, năm 2003 Trung ương
còn hỗ trợ cho các địa phương có nhiều khó khăn thực hiện một số nhiệm vụ,
chính sách . Cùng với nguồn hỗ trợ từ ngân sách Trung ương, địa phương chủ động
sử dụng ngân sách địa phương và huy động các nguồn lực khác để thực hiện một số
nhiệm vụ như:
+ Thực hiện cuộc vận động "
Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư".
+ Điều chỉnh học bổng chính sách
và trợ cấp xã hội đối với học sinh, sinh viên là người dân tộc thiểu số tại các
trường đào tạo công lập theo qui định tại Quyết định số 194/2001/QĐ-TTg ngày
21/12/2001 của Thủ tướng Chính phủ.
+ Thành lập quỹ khám chữa bệnh
cho người nghèo theo Quyết định số 139/2002/QĐ-TTg ngày 15/10/2002 của Thủ tướng
Chính phủ. Ngoài phần hỗ trợ từ ngân sách trung ương, các địa phương chủ động sử
dụng thêm kinh phí đảm bảo xã hội, các nguồn khác từ ngân sách địa phương để
đóng góp vào quỹ theo đúng qui định.
+ Đầu tư cơ sở hạ tầng và giải
quyết đất sản xuất, đất ở cho đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ ở Tây Nguyên và
6 tỉnh đặc biệt khó khăn miền núi phía Bắc theo Quyết định số 168/2001/QĐ-TTg
ngày 30/10/2001 và Quyết định số 186/2001/QĐ-TTg ngày 07/12/2001 và Quyết định
số 132/2002/QĐ-TTg ngày 08/10/2002 của Thủ tướng Chính phủ. Riêng việc giải quyết
đất sản xuất, đất ở cho đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ ở Tây Nguyên phải
hoàn thành trong năm 2003.
+Thực hiện đổi mới chương trình
giáo dục phổ thông lớp 2, lớp 7 theo Nghị quyết 40/2000/QH 10 ngày 09/12/2000 của
Quốc hội.
+Thực hiện Chương trình kiên cố
hoá trường, lớp học từ giáo dục mầm non đến giáo dục phổ thông để xoá bỏ tình
trạng học 3 ca, phòng học tranh tre, nứa lá theo Quyết định số 159/2002/QĐ-TTg
ngày 15/11/2002 của Thủ tướng Chính phủ.
- Thực hiện kiểm tra phân loại,
xác định mức độ thất thu, gian lận thương mại ở từng địa bàn, từng lĩnh vực.
Trên cơ sở đó, có biện pháp chỉ đạo các lực lượng đấu tranh có hiệu quả đối với
các hành vi trốn lậu thuế, gian lận thương mại, tập trung vào những địa bàn, những
lĩnh vực hiện đang thất thu lớn. Rà soát, nắm lại các đối tượng thu, tình hình
sản xuất kinh doanh để đảm bảo thu đúng, thu đủ các khoản thu theo quy định của
Pháp luật, nhất là đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, cần xác định mức
thu hợp lý, điều chỉnh kịp thời cho phù hợp với tình hình sản xuất kinh doanh của
các đối tượng ở khu vực này.
- Tăng cường công tác kiểm tra
việc hoàn thuế giá trị gia tăng, đảm bảo vừa quản lý chặt chẽ vừa tạo điều kiện
thuận lợi cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, chống gian lận trong việc
hoàn thuế để chiếm đoạt tiền ngân sách nhà nước, xử lý nghiêm đối với những trường
hợp vi phạm, kiên quyết thu hồi về cho ngân sách nhà nước khoản chiếm dụng tiền
hoàn thuế.
- Triển khai thực hiện Pháp lệnh
phí và lệ phí đảm bảo thực hiện thống nhất trong phạm vi cả nước.
2. Về quản
lý, điều hành ngân sách:
2.1 Các Bộ, địa phương, đơn vị
phải sử dụng ngân sách trong phạm vi dự toán được giao; không được chiếm dụng,
vay, cho vay dưới bất kỳ hình thức nào. Trường hợp ngân sách cấp tỉnh cần huy động
vốn để đầu tư cơ sở hạ tầng thì được phép huy động tối đa không vượt quá 30% vốn
đầu tư xây dựng cơ bản hàng năm của ngân sách cấp tỉnh.
2.2. Tổ chức điều hành dự toán
ngân sách nhà nước theo nguyên tắc:
- Đối với ngân sách nhà nước: Nếu
thu vượt so với dự toán, số tăng thu được sử dụng để giảm bội chi ngân sách nhà
nước, tăng chi trả nợ, tăng chi đầu tư phát triển, bổ sung nguồn để cải cách tiền
lương, tăng quỹ dự trữ tài chính, tăng dự phòng ngân sách để chủ động đối phó với
thiên tai và xử lý một số nhiệm vụ đột xuất phát sinh.Trường hợp thu giảm lớn
so dự toán, phải giảm chi tương ứng.
- Đối với ngân sách địa phương:
+ Nếu vượt thu (phần ngân sách địa
phương được hưởng theo phân cấp) so với dự toán, số tăng thu được sử dụng để
tăng chi trả nợ, tăng chi đầu tư phát triển, bổ sung nguồn để cải cách tiền
lương, tăng quỹ dự trữ tài chính, tăng dự phòng ngân sách để chủ động đối phó với
thiên tai và xử lý một số nhiệm vụ đột xuất phát sinh.Uỷ ban nhân dân các cấp
xây dựng phương án sử dụng số tăng thu ngân sách nhà nước trình Thường trực Hội
đồng nhân dân cùng cấp (đối với cấp xã báo cáo Hội đồng nhân dân ) xem xét cho
ý kiến trước khi thực hiện.
+ Nếu vượt thu (Phần ngân sách
trung ương hưởng), Trung ương thực hiện thưởng vượt thu cho các địa phương:
. Đối với thuế tiêu thụ đặc biệt
hàng sản xuất trong nước: Thưởng 100% số vượt thu so dự toán Chính phủ giao.
. Đối với thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt hàng nhập khẩu: Thưởng 100% số vượt thu so với
dự toán Chính phủ giao từ 20 tỷ đồng trở xuống và 50% của phần vượt trên 20 tỷ
đồng nhưng tổng số thưởng tối đa không vượt quá 50 tỷ đồng.
. Đối với các khoản thu phân
chia giữa ngân sách Trung ương và ngân sách địa phương: thưởng 20% của phần thực
thu nộp vào ngân sách trung ương năm 2003 cao hơn thực hiện năm 2002 (không bao
gồm thu sử dụng vốn ngân sách).
Riêng đối với thành phố Hà Nội,
thưởng vượt thu được thực hiện theo Pháp lệnh thủ đô số 29/2000/PL-UBTVQH10
ngày 28/12/2000 của ủy ban Thường vụ Quốc hội và các văn bản hướng dẫn.
Số thưởng vượt thu nêu trên được
sử dụng để bổ sung vốn đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, thực hiện các nhiệm vụ
quan trọng đột xuất phát sinh ở địa phương kể cả thưởng cho ngân sách cấp dưới
và được hạch toán, quyết toán vào niên độ ngân sách năm 2004.
Số thu làm căn cứ xét thưởng nêu
trên là số thực nộp vào Kho bạc nhà nước và được Kho bạc nhà nước phân chia
theo đúng tỷ lệ được phân cấp. Đối với các khoản ghi thu, ghi chi ngoài dự toán
đầu năm; phụ thu; chênh lệch giá, các khoản thu đã được Trung ương hoàn trả hoặc
cấp lại không được xét thưởng.
Để có cơ sở xét thưởng, các địa
phương có trách nhiệm tổng hợp kết quả thu nộp ngân sách nhà nước đến thời điểm
31/12/2003 gửi về Bộ Tài chính trước ngày 31/01/2004 và phải có xác nhận của cơ
quan thuế (đối với thuế tiêu thụ đặc biệt hàng sản xuất trong nước), hải quan
(đối với số thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt hàng nhập
khẩu) và Sở Tài chính - Vật giá, Kho bạc nhà nước.
- Nếu giảm thu so dự toán giao
thì Uỷ ban nhân dân các cấp xây dựng phương án điều chỉnh để sắp xếp, giảm chi
tương ứng, tập trung cắt giảm hoặc giãn, hoãn những nhiệm vụ chưa thực sự cấp
thiết,...trình Thường trực Hội đồng nhân dân cùng cấp (hoặc Hội đồng nhân dân cấp
xã ) xem xét quyết định.
Đối với một số nhiệm vụ chi được
đảm bảo từ một số nguồn thu được để lại (hoặc cấp lại) theo qui định nêu tại điểm
1. Phần I của Thông tư này, căn cứ vào mức bổ sung có mục tiêu từ ngân sách
Trung ương và mức bố trí tiếp từ ngân sách địa phương, các địa phương chủ động
điều hành chi đầu tư thực hiện các nhiệm vụ theo dự toán. Trường hợp nguồn thu
giảm (phần bố trí trong chi cân đối ngân sách) có thể bố trí giảm chi đầu tư
tương ứng.
Các Bộ, cơ quan Trung ương, các
địa phương chủ động cân đối ngân sách để giải quyết các nhiệm vụ chi đột xuất
phát sinh. Năm 2003 không giải quyết các nhu cầu chi ngoài dự toán cho cơ quan
đơn vị và cấp dưới, trừ các trường hợp bất khả kháng như thiên tai xảy ra trên
phạm vi rộng, mức độ thiệt hại lớn vượt quá khả năng ngân sách của các Bộ, địa
phương.
- Dự phòng ngân sách Trung ương
và ngân sách các cấp chính quyền địa phương chỉ được sử dụng để giải quyết các
nhiệm vụ chi đột xuất phát sinh như phục hậu quả thiên tai, cứu đói, ...
- Về quản lý chi xây dựng cơ bản,
chương trình mục tiêu, các Bộ, Uỷ ban nhân dân các cấp và các đơn vị cần thực
hiện tốt các biện pháp nhằm khắc phục những tồn tại, trong đó chú ý đến việc mở
rộng mô hình Ban quản lý công trình chuyên trách để nâng cao hiệu quả quản lý
các dự án, công trình và thực hiện các biện pháp:
+ Rà soát lại danh mục các dự án
đầu tư, chỉ bố trí vốn cho những dự án có đầy đủ thủ tục theo qui định, ưu tiên
bố trí vốn cho các dự án quan trọng, nhất là giao thông, thuỷ lợi,... Cơ quan
tài chính các cấp cần có kế hoạch tạm ứng vốn ngay từ đầu năm cho các dự án
công trình thiết yếu, nhất là xây dựng tu bổ các công trình đê điều, thuỷ lợi,
phòng chống thiên tai, khắc phục lũ lụt, cung cấp giống cây, con và các vật tư
thiết yếu khác phục vụ sản xuất, đảm bảo kịp thời vụ.
+ Trong quá trình điều hành ngân
sách cần theo sát tiến độ thực hiện để bố trí vốn. Những dự án không thực hiện
theo đúng tiến độ cần điều chỉnh chuyển vốn cho những dự án có tiến độ triển
khai nhanh, có khả năng hoàn thành nhưng chưa được bố trí đủ vốn nhằm sớm hoàn
thành đưa công trình vào sử dụng, chấm dứt tình trạng kéo dài thời hạn bố trí vốn
đầu tư, thanh toán vốn. Không xử lý bổ sung vốn cho khối lượng thực hiện vượt dự
toán và bổ sung các nhiệm vụ chi xây dựng cơ bản ngoài kế hoạch.
+ Thực hiện quyết toán giá trị
công trình theo đúng thời gian qui định hiện hành. Nếu quá thời hạn chưa quyết
toán, cần qui trách nhiệm cụ thể.
- Đẩy mạnh triển khai thực hiện
cơ chế tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp có thu theo Nghị định
10/20002/NĐ-CP ngày 16/01/2002 của Chính phủ; mở rộng thí điểm khoán biên chế
và kinh phí quản lý hành chính đối với các cơ quan hành chính nhà nước theo Quyết
định số 192/2001/QĐ-TTg ngày 17/12/2001 của Thủ tướng Chính phủ.
- Thực hiện nghiêm chỉnh Chỉ thị
số 29/2001/CT-TTg ngày 30/11/2001 của Thủ tướng Chính phủ về đẩy mạnh thực hành
tiết kiệm, chống lãng phí và các văn bản hướng dẫn. Rà soát lại các biện pháp
tiết kiệm, đưa ra các biện pháp tiết kiệm cụ thể ở địa phương, đơn vị ( tiết kiệm
trong hội họp, tiếp khách, lễ kỷ niệm đón nhận huân chương...). Trong mua sắm
trang thiết bị, tài sản phải theo đúng tiêu chuẩn, chế độ. Thủ trưởng đơn vị chịu
trách nhiệm cá nhân về việc sử dụng kinh phí từ ngân sách nhà nước đúng mục
đích, đúng chế độ, hiệu quả và tiết kiệm. Kho bạc nhà nước cần tăng cường việc
kiểm tra, kiểm soát chi ngân sách nhà nước đảm bảo sử dụng ngân sách tiết kiệm,
có hiệu quả, góp phần ngăn chặn và đẩy lùi tham nhũng. Xử lý nghiêm và kịp thời
các vi phạm đã được các cơ quan thanh tra, kiểm tra, kiểm toán kết luận. Tăng
cường công tác kiểm tra, thanh tra của các cơ quan nhà nước, sự giám sát của
các cơ quan dân cử, tổ chức chính trị - xã hội, nhân dân đối với các khoản thu,
chi ngân sách nhà nước, các khoản huy động, sử dụng nguồn đóng góp nhân dân,
góp phần thực hiện tốt qui chế dân chủ ở cơ sở.
- Thực hiện nghiêm túc chế độ
công khai ngân sách nhà nước ở tất cả các ngành, các cấp, các đơn vị ngay sau
khi dự toán ngân sách năm 2003 được giao và quyết toán ngân sách năm 2002 được
phê chuẩn theo quy định tại các Quyết định 225/1998/QĐ-TTg ngày 20/11/2001 và
Quyết định số 182/2001/QĐ-TTg ngày 20/11/2001 của Thủ tướng Chính phủ và các
Thông tư hướng dẫn của Bộ Tài chính.
4. Về cải cách
thủ tục hành chính trong lĩnh vực tài chính, Ngân sách Nhà nước:
Tiếp tục thực hiện cải cách hành
chính trong lĩnh vực tài chính, Ngân sách Nhà nước, trong đó tập trung vào một
số nội dung:
- Tiếp tục thực hiện cơ chế cấp
phát ngân sách theo qui định tại Thông tư 103/1998/TT-BTC ngày 18/7/1998 của Bộ
tài chính và các văn bản bổ sung, sửa đổi. Các đơn vị thực hiện khoản chi hành
chính và các đơn vị sự nghiệp có thu cấp phát theo phương thức qui định tại
Thông tư liên tịch số 17/2002/TTLT-BTC-BTCCBCP ngày 08/02/2002 và Thông tư số
25/2002/TT-BTC ngày 21/03/2002 của Bộ Tài chính.
- Trường hợp các Bộ, cơ quan
Trung ương, Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có kế hoạch
thực hiện thí điểm việc cấp phát theo dự toán, đề nghị phối hợp với Bộ Tài
chính để nghiên cứu tổ chức thực hiện.
- Tổ chức đào tạo đối với cán bộ
quản lý tài chính, chú trọng cấp cơ sở (xã, phường) đủ năng lực thực hiện chức
năng tham mưu và quản lý tài chính ngân sách xã, góp phần lành mạnh tình hình
tài chính và thực hiện qui chế dân chủ ở cơ sở.
- Thiết lập quy trình và phương
pháp kiểm soát chi trong điều kiện khoán chi hành chính và cơ chế tài chính tự
trang trải ở các đơn vị sự nghiệp có thu, có thuê mướn dịch vụ ở công sở.
- Cải tiến chế độ báo cáo, tổ chức
lại hệ thống thông tin nhằm tăng cường trao đổi, phối hợp cung cấp thông tin.
Tăng cường công tác quản lý các
hoạt động tài chính, ngân sách xã; các khoản huy động ở xã, đảm bảo sử dụng
đúng mục đích, hiệu quả; phát huy dân chủ ở cơ sở. Mở rộng thí điểm ủy nhiệm
thu cho xã đối với một số khoản thu ngoài quốc doanh như thu từ hoạt động xây dựng
cơ bản, buôn bán hải sản tươi sống, các hộ kinh doanh công thương nghiệp...
Trên cơ sở rà soát các khoản nợ
của ngân sách xã, các địa phương có kế hoạch xử lý dứt điểm, kiên quyết không để
phát sinh nợ mới.
Thông tư này có hiệu lực thi hành
trong năm ngân sách 2003. Các Bộ, ngành, Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương căn cứ vào Thông tư này để tổ chức hướng dẫn các cơ quan, đơn
vị và các cấp chính quyền địa phương thực hiện.