Quyết định 1291/QĐ-TTg năm 2014 phê duyệt Kế hoạch hành động phát triển ngành công nghiệp chế biến nông, thủy sản thực hiện Chiến lược công nghiệp hóa của Việt Nam trong khuôn khổ hợp tác Việt Nam-Nhật Bản hướng đến năm 2020, tầm nhìn 2030 do Thủ tướng Chính phủ ban hành

Số hiệu 1291/QĐ-TTg
Ngày ban hành 01/08/2014
Ngày có hiệu lực 01/08/2014
Loại văn bản Quyết định
Cơ quan ban hành Thủ tướng Chính phủ
Người ký Nguyễn Tấn Dũng
Lĩnh vực Thương mại,Bộ máy hành chính,Tài nguyên - Môi trường

THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 1291/QĐ-TTg

Hà Nội, ngày 01 tháng 08 năm 2014

 

QUYẾT ĐỊNH

PHÊ DUYỆT KẾ HOẠCH HÀNH ĐỘNG PHÁT TRIỂN NGÀNH CÔNG NGHIỆP CHẾ BIẾN NÔNG, THỦY SẢN THỰC HIỆN CHIẾN LƯỢC CÔNG NGHIỆP HÓA CỦA VIỆT NAM TRONG KHUÔN KHỔ HỢP TÁC VIỆT NAM-NHẬT BẢN HƯỚNG ĐẾN NĂM 2020, TẦM NHÌN 2030

THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ

Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 2001;

Căn cứ Quyết định số 1043/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược công nghiệp hóa của Việt Nam trong khuôn khổ hợp tác Việt Nam - Nhật Bản hướng đến năm 2020, tầm nhìn 2030;

Xét đề nghị của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn,

QUYẾT ĐỊNH:

Điều 1. Ban hành kèm theo Quyết định này Kế hoạch hành động phát triển ngành công nghiệp chế biến nông, thủy sản thực hiện Chiến lược công nghiệp hóa của Việt Nam trong khuôn khổ hợp tác Việt Nam - Nhật Bản hướng đến năm 2020, tầm nhìn 2030 theo Quyết định số 1043/QĐ-TTg ngày 01 tháng 7 năm 2013 của Thủ tướng Chính phủ.

Điều 2. Quyết định này có hiệu lực kể từ ngày ký.

Điều 3. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này.

 


Nơi nhận:
- Ban Bí thư Trung ương Đảng;
- Thủ tướng, các Phó Thủ tướng Chính phủ;
- Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ;
- HĐND, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc TW;
- Văn phòng Trung ương và các Ban của Đảng;
- Văn phòng Tổng Bí thư;
- Văn phòng Chủ tịch nước;
- Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội;
- Văn phòng Quốc hội;
- Tòa án nhân dân tối cao;
- Viện Kiểm sát nhân dân tối cao;
- Kiểm toán Nhà nước;
- Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia;
- Ngân hàng Chính sách xã hội;
- Ngân hàng Phát triển Việt Nam;
- UBTW Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;
- Cơ quan Trung ương của các đoàn thể;
- Các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước;
- VPCP: BTCN, các PCN, Trợ lý TTCP, TGĐ Cổng TTĐT, các Vụ: TH, TKBT, KGVX, KTN, V.III, ĐMDN, KTTH, PL, Công báo;
- Lưu: Văn thư, QHQT (3b).

THỦ TƯỚNG




Nguyễn Tấn Dũng

 

KẾ HOẠCH HÀNH ĐỘNG

PHÁT TRIỂN NGÀNH CÔNG NGHIỆP CHẾ BIẾN NÔNG, THỦY SẢN THỰC HIỆN CHIẾN LƯỢC CÔNG NGHIỆP HÓA CỦA VIỆT NAM TRONG KHUÔN KHỔ HỢP TÁC VIỆT NAM-NHẬT BẢN HƯỚNG ĐẾN NĂM 2020, TẦM NHÌN 2030
(Ban hành kèm theo Quyết định số: 1291/QĐ-TTg ngày 01 tháng 8 năm 2014 của Thủ tướng Chính phủ)

I. THỰC TRẠNG

1. Vị trí, vai trò của ngành công nghiệp chế biến nông, thủy sản tại Việt Nam, triển vọng trong 10 năm tới

Ngành chế biến nông, thủy sản của Việt Nam chiếm một tỷ trọng đáng kể trong công nghiệp chế biến/sản xuất, một lĩnh vực chiếm khoảng 20% GDP. Tại thời điểm năm 2001, ngành chế biến nông, thủy sản và thực phẩm giữ vị trí hàng đầu, chiếm khoảng 23%, năm 2010 chiếm khoảng 20% giá trị sản xuất công nghiệp và vị thế này không có sự thay đổi lớn trong 10 năm qua. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tại thời điểm năm 2012 có trên 6.000 doanh nghiệp trong lĩnh vực chế biến nông, thủy sản. Đây là lĩnh vực quan trọng có số lượng doanh nghiệp nhiều nhất trong công nghiệp sản xuất.

Các sản phẩm nông, thủy sản chế biến chủ yếu là: lúa gạo, cà phê, chè, hạt điều, hạt tiêu, rau quả, cao su, các sản phẩm thủy sản đông lạnh. Hầu hết các sản phẩm chế biến ở dạng sơ chế, tỷ lệ chế biến sâu (tinh chế) còn rất thấp.

Kim ngạch xuất khẩu sản phẩm nông thủy sản của Việt Nam năm 2012 đạt 18,1 tỷ USD, trong 5 năm trở lại đây tăng khoảng 2,2 lần và là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam.

2. Phân tích cung, cầu

Theo dự báo của Euromonitor International, quy mô thị trường đối với thực phẩm chế biến được đóng gói (Packaged Food) trên thế giới là 860 tỷ USD (năm 2010), và dự báo năm 2015 sẽ tăng lên 997 tỷ USD.

Với nguồn tài nguyên phong phú về nông, thủy sản, nếu Việt Nam thực hiện các biện pháp chính sách đồng bộ sẽ đem lại sự phát triển nhất định cho lĩnh vực này. Hướng chỉ đạo của Chính phủ Việt Nam là cơ cấu lại sản phẩm chế biến, sản xuất các sản phẩm có giá trị gia tăng cao, đảm bảo vệ sinh toàn thực phẩm và phát triển bền vững.

Không dừng ở cơ cấu sản xuất và xuất khẩu như nêu trên, cần phải tiến hành thương mại hóa các sản phẩm nhằm đáp ứng với nhu cầu thị trường nước ngoài trên cơ sở tận dụng nguồn tài nguyên về nông, thủy sản trong nước, thúc đẩy xuất khẩu các sản phẩm có giá trị gia tăng cao bao gồm cả việc tạo dựng thương hiệu, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng của ngành.

3. Những vấn đề tồn tại

Điều quan trọng trong các giải pháp nhằm nâng cao giá trị gia tăng trước hết đó là nâng cao tính an toàn vệ sinh thực phẩm. Hiện nay, đáng tiếc là Việt Nam vẫn còn những trường hợp bị dừng xuất khẩu do dư lượng thuốc bảo vệ thực vật cũng như thuốc kháng sinh trong sản phẩm nông, thủy sản vượt mức cho phép. Ngoài ra, các tiêu chuẩn quốc tế như GMP (Good Manufacturing Practice) hay HACCP (Hazard Analysis and Critical Control Point) chưa được hiểu biết rộng rãi. Nếu xem xét việc xuất khẩu từ Việt Nam sang Nhật Bản, theo thống kê giám sát thực phẩm nhập khẩu năm 2011 của Bộ Y tế, Phúc lợi và Lao động Nhật Bản thì số lượng mặt hàng thực phẩm của Việt Nam vi phạm Luật an toàn vệ sinh thực phẩm của Nhật Bản (166 vụ việc, chiếm 13,2% tổng số vụ việc vi phạm) đứng thứ 3 sau Trung Quốc (278 vụ việc, 22,1%) và Mỹ (174 vụ việc, 13,8%). Việc cải thiện niềm tin đối với thực phẩm chế biến của Việt Nam thông qua việc thực hiện triệt để VietGAP, truy xuất nguồn gốc và chuỗi giá trị sẽ là điều kiện tiền đề để nâng cao giá trị gia tăng cho các sản phẩm nông, thủy sản và thực phẩm chế biến.

Thứ 2, đó là bảo đảm sự ổn định về chất lượng và số lượng của nguồn nguyên liệu. Điều kiện cần thiết đối với doanh nghiệp chế biến nông, thủy sản và thực phẩm là bảo đảm chất lượng ổn định cũng như số lượng ổn định của nguồn nguyên liệu.

Thứ 3, nâng cao hàm lượng chế biến. Các công đoạn chế biến bắt đầu từ tinh chế nguyên liệu, quản lý quá trình chế biến, đến đóng gói, bao bì... Nếu nâng cao được hàm lượng chế biến sẽ góp phần nâng cao giá trị gia tăng cho sản phẩm chế biến của Việt Nam.

[...]