ỦY BAN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
-------
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 35/KH-UBND
|
Hà Nội, ngày 05 tháng 02 năm 2021
|
KẾ HOẠCH
PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẬP THỂ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI NĂM 2021
Phần thứ nhất
ĐÁNH GIÁ TÌNH
HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẬP THỂ NĂM 2020
I. TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ
TẬP THỂ, HỢP TÁC XÃ
1. Đánh giá dựa trên các chỉ
tiêu về hoạt động sản xuất, kinh doanh
1.1 Tổ hợp tác (THT)
Tổng số THT trên địa bàn là 1.543
THT, trong đó có 1.049 THT nông nghiệp, 417 THT công nghiệp - tiểu thủ công
nghiệp và 77 THT thuộc các lĩnh vực khác. Số thành viên THT là 4.629 thành
viên.
Nhìn chung, mô hình THT đã thể hiện
được bản chất của kinh tế tập thể (KTTT), là mô hình phù hợp với thực tế trong
việc hỗ trợ kinh tế hộ gia đình phát triển, đặc biệt là khu vực nông thôn, ngoại
thành Hà Nội; đã đáp ứng và khắc phục được một số mặt hạn chế của kinh tế hộ
như: thiếu vốn, thiếu công cụ, kỹ thuật và kinh nghiệm sản xuất, sức cạnh tranh
thấp. Doanh thu bình quân của THT đạt 220 triệu đồng/năm; lãi bình quân 01 THT
đem lại giá trị khoảng 35 triệu đồng/năm; thu nhập bình quân của các thành
viên, lao động của THT trung bình từ 3 đến 5 triệu đồng/người/tháng,
góp phần tạo việc làm, xóa đói, giảm nghèo và nâng cao đời sống cho các hộ
thành viên và nhân dân.
1.2. Hợp tác xã (HTX)
Tổng số HTX và quỹ tín dụng nhân dân
trên địa bàn là 2.164 (gọi chung là HTX), tăng 80 HTX so với năm 2019, đạt và
vượt kế hoạch năm 2020; trong đó: Số HTX đang hoạt động là 1.802 HTX; số HTX thành lập mới trong năm 2020 là
100 HTX, HTX giải thể là 20 HTX. Đa số các HTX đã tiến hành chuyển đổi, đăng ký
lại theo Luật HTX năm 2012; chưa có HTX nào chuyển sang loại hình kinh tế khác.
- Doanh thu bình quân của HTX là
2.750 triệu đồng/năm (tăng 10,2% so với năm 2019); lãi bình quân của 1 HTX đạt
190 triệu đồng/năm (tăng 6,7% so với năm 2019); thu nhập bình quân của thành
viên, lao động HTX là 50 triệu đồng/người/năm (tăng 4,2% so với năm 2019).
- Số HTX hoạt động hiệu quả là 1.175
HTX, chiếm 65,2% tổng số HTX đang hoạt động. Các HTX này
thường xuyên được củng cố về tổ chức, hoạt động, giá trị sản phẩm ngày càng nâng lên nhờ ứng dụng công nghệ cao, sản xuất theo tiêu chuẩn hữu cơ, Vietgap, áp dụng truy xuất
nguồn gốc sản phẩm. Dịch vụ của HTX cung cấp cho hộ thành viên HTX có hỗ trợ về
giá so với giá cả thị trường, chi phí sản xuất của thành viên giảm so với các hộ
thành viên, việc tiêu thụ sản phẩm của HTX luôn có ưu tiên cho hộ thành viên
HTX, nhờ vậy, thu nhập của hộ thành viên HTX cao hơn so với các hộ không phải
thành viên.
- Tổng số thành viên của HTX là
598.500 thành viên (tăng 32.120 thành viên so với năm 2019). Tổng số lao động làm việc thường xuyên trong HTX là 45.500 người, trong
đó số lao động là thành viên HTX là 44.875 người.
- Tổng số cán bộ quản lý HTX là 6.603
người, trong đó: số cán bộ đạt trình độ cao đẳng, đại học
trở lên là 2.141 người (chiếm 32,4%), đạt trình độ sơ cấp, trung cấp là 4.462
(chiếm 67,6%).
1.3.
Liên hiệp HTX (LHHTX)
Tổng số LHHTX trên địa bàn Thành phố
là 17 LHHTX (tăng 03 LHHTX so với năm 2019), trong đó có 10 LHHTX đang hoạt động
và 07 LHHTX ngừng hoạt động. Năm 2020 có 04 LHHTX thành lập mới (02 LHHTX lĩnh
vực nông nghiệp; 02 LHHTX lĩnh vực thương mại - dịch vụ) và 01 LHHTX giải thể.
LHHTX đang hoạt động chủ yếu là các
HTX thành lập từ năm 2016 trở lại đây. Các LHHTX này đã từng bước tổ chức liên
kết, mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, tạo cơ hội cho nhiều đơn vị thành
viên phát triển. Một số LHHTX đã có kết quả hoạt động tốt, cung cấp sản phẩm rộng
rãi cho toàn Thành phố và các tỉnh lân cận.
(Chi
tiết tại Phụ lục 1 và Phụ lục
2 đính kèm)
2. Tình hình phát triển
KTTT theo ngành, lĩnh vực
2.1.
Lĩnh vực nông nghiệp
Thành phố có 1.262 HTX nông nghiệp và
7 LH HTX nông nghiệp. Hoạt động kinh doanh dịch vụ của các tổ chức KTTT thuộc lĩnh vực nông nghiệp cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu phục
vụ sản xuất của các hộ thành viên; đã đưa cơ giới hóa, giống cây trồng, vật
nuôi năng suất, chất lượng, giá trị cao vào sản xuất. Các HTX nông nghiệp đã tổ
chức trên 10 khâu dịch vụ, hầu hết các khâu dịch vụ phục vụ sản xuất đều được
các hộ thành viên sử dụng; một số hộ đã mở rộng nhiều dịch vụ có lãi và thực hiện
miễn các khoản dịch vụ phục vụ sản xuất nông nghiệp cho thành viên. Nhiều HTX
đã mạnh dạn đầu tư trang thiết bị, hệ thống chuồng trại tiên tiến để nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, từng bước
mở rộng sản xuất kinh doanh, tăng thu nhập cho HTX; tham gia, xây dựng chuỗi
giá trị khép kín từ sản xuất, chế biến, lưu thông và phân phối, bước đầu có hiệu
quả. Đến nay toàn Thành phố có 141 HTX tham gia liên kết
chuỗi giá trị, đảm bảo cho nông sản có thị trường tiêu thụ ổn định; nhiều HTX
áp dụng các tiêu chuẩn sản xuất Vietgap, hữu cơ, đã đăng
ký nhãn hiệu, thương hiệu tập thể như:
gạo chất lượng cao T10 của HTX Đại Thắng - huyện Phú Xuyên, gạo nếp cái hoa
vàng của HTX Liên Hà - huyện Đông Anh, khoai lang Hoàng Long của HTX Đồng Thái
- huyện Ba Vì, ...
Do sản xuất nông nghiệp với quy mô nhỏ,
giá cả các sản phẩm đầu ra không ổn định, ảnh hưởng của thiên tai dịch bệnh, một
số thành viên bỏ ruộng để chuyển sang làm dịch vụ khác ngày càng nhiều nên hiệu
quả hoạt động của HTX đến kinh tế của các thành viên không cao, số HTX hạn chế
trong việc mở rộng liên kết với các tổ chức cá nhân để đầu tư sản xuất, chế biến
và tiêu thụ nông sản, hàng hóa còn nhiều. Thu nhập của thành viên, người lao động
làm việc thường xuyên trong khu vực nông nghiệp (không kể thu
nhập của riêng các hộ) còn thấp, bình quân 2,5 triệu đồng/người/tháng, sản xuất
nông nghiệp chuyên ngành có thu nhập cao hơn, từ 3 - 5 triệu đồng/người/tháng.
2.2. Lĩnh vực công nghiệp -
tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ
- Lĩnh vực công nghiệp - tiểu thủ
công nghiệp (CN-TTCN): Có 293 HTX CN-TTCN và 01 LH HTX
CN-TTCN. Các đơn vị nay tập trung chủ yếu ở khu vực nội
thành; quy mô tổ chức sản xuất đa số nhỏ (khoảng 24 lao động/đơn vị); sản xuất
nhiều sản phẩm đa dạng, phong phú, đáp ứng một phần nhu cầu
thiết yếu đối với sản phẩm hàng hóa cho thị trường Hà Nội và một số tỉnh lân cận.
Kỹ thuật, công nghệ trong các HTX CN-TTCN phổ biến là thủ công truyền thống và
bán tự động; khoảng 10% HTX sử dụng công nghệ hiện đại, trong đó một số HTX đã
áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế, mạnh dạn đầu tư
công nghệ vào sản xuất. Nhìn chung, HTX hoạt động trong lĩnh vực này còn gặp
nhiều khó khăn như: mặt bằng chật hẹp, chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất hoặc chưa ký được hợp đồng thuê đất lâu dài; trình độ lao động thủ công vẫn
là phổ biến; thiếu vốn phát triển sản xuất kinh doanh,...
- Lĩnh vực thương mại - dịch vụ: Có
253 HTX thương mại - dịch vụ và 04 LH HTX thương mại - dịch vụ. Các đơn vị thuộc
lĩnh vực thương mại - dịch vụ chủ yếu kinh doanh nước sạch, điện dân sinh, dịch
vụ nhà ở, bãi đỗ xe, đầu tư xây dựng và quản lý kinh doanh khai thác chợ, dịch
vụ vui chơi giải trí. Một số đơn vị mở rộng hợp tác, liên
kết trong kinh doanh, phát triển thị trường, đã có kết nối giữa HTX với doanh
nghiệp, HTX với HTX để tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, góp phần tích cực trong
thực hiện chủ trương “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”.
2.3. Lĩnh vực xây dựng
Trên địa bàn Thành phố có 23 HTX xây
dựng và 02 LH HTX xây dựng. Nhìn chung các đơn vị hoạt động trong lĩnh vực này
gặp nhiều khó khăn, quy mô vốn nhỏ, năng lực về tài chính, nhân lực, máy móc
thiết bị, phương tiện thi công chưa đầy đủ và chịu tác động, ảnh hưởng theo những
đặc thù của ngành xây dựng nên khó trúng thầu các công trình lớn hoặc hiệu quả
đầu tư thấp, chủ yếu nhận thầu các công trình dân dụng. Tuy nhiên một số đơn vị
đã duy trì hoạt động, tạo việc làm thường xuyên cho thành viên, người lao động
với mức thu nhập cao.
2.4. Lĩnh vực vận tải
Trên địa bàn Thành phố có 189 HTX vận
tải và 03 LH HTX vận tải; doanh thu bình quân của đơn vị đạt
9,9 tỉ đồng/năm; thu nhập bình quân của lao động làm việc thường xuyên khoảng 4
triệu đồng/tháng. Các HTX vận tải đều đã tổ chức lại theo Luật HTX năm 2012 và
tập trung đổi mới quản lý điều hành, nâng cao chất lượng dịch vụ, mở rộng mạng
lưới kinh doanh; hoạt động tương đối hiệu quả, góp phần vào việc vận chuyển,
hàng hóa hành khách tạo điều kiện thuận lợi cho việc đi lại của người dân, lưu
thông hàng hóa giữa các vùng miền. Tuy nhiên một số đơn vị
thành lập mới chỉ có địa chỉ giao dịch (sử dụng chung với sinh hoạt gia đình),
không có nhà xưởng, gara; một số đơn vị tuy có mặt bằng nhưng cơ sở vật chất,
trang thiết bị cũ, lạc hậu, không phát huy được nội lực đơn vị.
2.5. Lĩnh vực tín dụng
Thành phố có 98 quỹ tín dụng nhân dân
với tổng số khoảng 122.000 thành viên, tỉ lệ nợ xấu đa số dưới 3%. Hoạt động của đa số quỹ tín dụng nhân dân ổn định
và có hướng phát triển khá. Các quỹ đã thực hiện tái cơ cấu tổ chức và hoạt động
theo Luật tổ chức tín dụng và Luật HTX năm 2012; tập trung kiện toàn, nâng cao
năng lực bộ máy quản trị, điều hành, kiểm soát và hiệu quả hoạt động; tích cực
xử lý nợ xấu, duy trì các tỷ lệ an toàn trong hoạt động, đảm bảo khả năng chi
trả. Kết quả hoạt động của các quỹ tín dụng nhân dân đã
góp phần tích cực vào phát triển kinh tế, xã hội, góp phần xóa đói giảm nghèo và hạn chế nạn cho vay nặng lãi tại các địa phương.
3. Một số mô hình hoạt động
hiệu quả theo phương thức sản xuất gắn với chuỗi giá trị
Trên địa bàn Thành phố có 141 HTX
tham gia xây dựng, duy trì chuỗi sản phẩm hàng hóa, tập trung chủ yếu ở khâu sản
xuất. Các mô hình liên kết gắn với chuỗi giá trị quy mô còn nhỏ nhưng đã đem lại
hiệu quả kinh tế cao, giúp gia tăng giá trị sản phẩm từ 10-20%.
Một số HTX tiêu biểu trên địa bàn đã
tổ chức hoạt động, sản xuất kinh doanh gắn với chuỗi là: HTX chăn nuôi và dịch
vụ Đồng Tâm, HTX Hoàng Long với chuỗi lợn sinh học; HTX đầu tư nông trại xanh
và phát triển bò Ba Vì với chuỗi khép kín mang thương hiệu “sữa Trang Viên”;
HTX nông nghiệp xã Tam Hưng với chuỗi gạo thơm Bối Khê; HTX nông lâm xã Bắc Sơn
với chuỗi chè an toàn Bắc Sơn; HTX nông nghiệp hữu cơ Đồng Phú với chuỗi sản xuất
gạo hữu cơ Đồng Phú; HTX Đan Hoài với chuỗi sản xuất hạt giống và hoa lan Hồ Điệp...
Ngoài ra, một số HTX đã đạt tiêu chuẩn tham gia Chuỗi cung ứng nông lâm, thủy sản
an toàn được xác nhận như: HTX nông nghiệp và dịch vụ Viên Sơn, HTX dịch vụ tổng
hợp Hòa Bình, HTX dịch vụ nông nghiệp Lĩnh Nam, HTX dịch vụ nông nghiệp Yên Mỹ,
HTX hữu cơ Thanh Xuân,...
4. Ảnh hưởng của dịch bệnh
Covid-19 đến lĩnh vực KTTT
Năm 2020, tình hình dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp, cùng với việc thực hiện cách
ly xã hội theo Chỉ thị số 16/TT-TTg ngày 31/3/2020 của Thủ tướng Chính phủ và
các biện pháp cấp bách phòng, chống dịch Covid-19, kinh tế - xã hội Thủ đô,
trong đó có khu vực kinh tế tập thể đã bị ảnh hưởng nhất định. Phần lớn các HTX
đều gặp khó khăn trong mua nguyên liệu đầu vào, thị trường đầu ra bị thu hẹp; một
số HTX gặp khó khăn trong việc trả lãi vay nên nguồn vốn để tiếp tục tái sản xuất,
đầu tư bị hạn chế. Sản lượng, doanh thu và thu nhập của
thành viên, người lao động đều suy giảm.
II. KẾT QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
VÀ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẬP THỂ
1. Công tác quán triệt, xây
dựng, ban hành văn bản về KTTT
Năm 2020, UBND Thành phố đã ban hành
Kế hoạch số 74/KH-UBND ngày 07/4/2020
về phát triển kinh tế tập thể thành phố Hà Nội năm 2020, theo đó đưa ra 5 nhiệm
vụ, giải pháp trọng tâm, phân công nhiệm vụ cho các sở, ngành, đơn vị thực hiện
để khắc phục hạn chế, tiếp tục phát triển kinh tế tập thể trên địa bàn. Để tiếp
tục phát triển KTTT trên địa bàn, hiện nay, Thành phố đang tập trung quán triệt,
chỉ đạo triển khai thực hiện Kết luận số 70-KL/TW ngày 09/3/2020 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX về tiếp tục đổi
mới, phát triển và nâng cao hiệu quả KTTT và Nghị quyết 134/NQ-CP ngày
25/9/2020 ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Kết luận
70-KL/TW của Bộ Chính trị.
Bên cạnh đó, Thành phố tiếp tục chỉ đạo
triển khai các kế hoạch, chương trình, đề án phát triển KTTT đã ban hành trước
đó như: Kế hoạch số 175/KH-UBND ngày 28/11/2013 thực hiện Chương trình hành động
số 24-CTr/TU ngày 19/9/2013 của Thành ủy Hà Nội về thực hiện Kết luận số
56-KL/TW ngày 21/01/2013 của Bộ Chính trị về tiếp tục đổi mới, phát triển và
nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể trên địa bàn thành phố Hà Nội giai đoạn từ
nay đến 2020; Chương trình hành động số 204/CTr-UBND ngày 26/10/2018 thực hiện
Chỉ thị số 12/CT-TTg ngày 22/5/2018 của Thủ tướng Chính phủ về việc tiếp tục
tăng cường công tác triển khai thi hành Luật HTX năm 2012; Kế hoạch số 192/KH-UBND ngày 04/10/2018 của UBND
Thành phố về “Chương trình hỗ trợ phát triển HTX trên địa bàn thành phố Hà Nội
giai đoạn 2019-2020” theo Quyết định số 2261/QĐ-TTg ngày 15/12/2014 của Thủ tướng
Chính phủ; Quyết định 8450/QĐ-UBND ngày 05/12/2017 về việc phê duyệt Đề án “Đổi
mới, phát triển kinh tế hợp tác trong hợp tác xã nông nghiệp trên địa bàn thành
phố Hà Nội đến năm 2020”; Quyết định số 579/QĐ-UBND ngày 30/01/2019 Ban hành Kế
hoạch triển khai thực hiện quyết định của Thủ tướng phê duyệt đề án Phát triển
15.000 HTX, liên hiệp HTX nông nghiệp hoạt động có hiệu quả đến năm 2020 trên địa
bàn Thành phố; Quyết định 390/QĐ-UBND ngày 17/01/2019 ban hành danh mục sản phẩm
quan trọng trong nông nghiệp cần khuyến khích và ưu tiên hỗ trợ thực hiện liên kết sản xuất với tiêu thụ sản phẩm;...
2. Công tác quản lý nhà nước
về KTTT
- Công tác thành lập và kiện toàn Ban
Chỉ đạo Đổi mới, phát triển KTTT, HTX: Ban Chỉ đạo Đổi mới, phát triển kinh tế
tập thể của Thành phố hiện có 20 thành viên, đồng chí Phó Chủ tịch UBND Thành phố làm Trưởng BCĐ, Sở Kế hoạch và Đầu tư là cơ quan thường
trực Ban Chỉ đạo. Hàng năm, Ban Chỉ đạo đổi mới, phát triển KTTT các cấp thực
hiện kiện toàn thành viên và chỉ đạo tổ chức thực hiện kế hoạch phát triển KTTT trên địa bàn, tổ chức giao ban, đánh giá tình hình hoạt động HTX.
- Công tác thành lập và kiện toàn bộ
máy quản lý nhà nước về HTX: Sở Kế hoạch và Đầu tư là cơ
quan được giao nhiệm vụ giúp UBND Thành phố thực hiện công
tác quản lý nhà nước đối với kinh tế tập thể trên địa bàn. Ở cấp huyện, chức
năng quản lý nhà nước về KTTT hiện được giao cho Phòng Tài chính - Kế hoạch, một
số quận huyện giao Phòng Kinh tế; cán bộ theo dõi KTTT ở các cấp hầu hết là
kiêm nhiệm.
Để nâng cao hiệu
lực hiệu quả quản lý nhà nước đối với khu vực KTTT, UBND
Thành phố đã có một số văn bản chỉ đạo các sở, ngành, UBND
quận, huyện, thị xã, tập trung vào các nhiệm vụ: Nâng cao nhận thức về KTTT,
HTX; kiện toàn tổ chức bộ máy, biên chế quản lý nhà nước về KTTT, HTX; triển
khai hiệu quả các chính sách hỗ trợ HTX; tăng cường tháo gỡ khó khăn, vướng mắc
của các tổ chức KTTT; xây dựng cơ sở dữ liệu về KTTT. Năm 2020, thực hiện chỉ đạo
trên, một số quận, huyện đã tiến hành rà soát và đang phân công lại nhiệm vụ
cho Phòng Tài chính - Kế hoạch và Phòng Kinh tế cấp huyện,
đảm bảo đúng quy định và đúng chỉ đạo của Thành phố.
- Công tác kiểm tra, giám sát: Các sở, ngành Thành phố, các cơ quan chuyên môn của nhiều
quận, huyện thuộc Thành phố đã quan tâm triển khai công tác kiểm tra, đôn đốc thực hiện các văn bản pháp luật ở HTX, định kỳ thanh kiểm
tra hoạt động của HTX, tập trung vào các nội dung: kiểm tra, giám sát việc thực
hiện đề án, kế hoạch sản xuất - kinh doanh, điều lệ HTX, tổ chức đại hội xã
viên, quản lý tài chính HTX, nộp thuế... Ngoài ra, UBND các quận, huyện, thị xã
thường xuyên phối hợp với Liên minh HTX Thành phố tổ chức
khảo sát, nắm bắt tình hình sản xuất kinh doanh, những khó khăn và thực hiện
đánh giá phân loại HTX để đưa ra giải pháp chỉ đạo thực hiện
nghiêm Luật HTX năm 2012.
- Về việc sử dụng Hệ thống thông tin
Quốc gia về đăng ký HTX: UBND Thành
phố giao Sở Kế hoạch và Đầu tư là đơn vị đầu mối chủ trì,
phối hợp với các quận, huyện, thị xã để thực hiện chuyển đổi dữ liệu đăng ký của
HTX. Đến nay, việc đăng ký và cấp tài khoản truy cập, đăng
nhập phần mềm chuyển đổi dữ liệu HTX vào Hệ thống thông tin Quốc gia về đăng ký
HTX cho các cán bộ thực hiện công tác đăng ký HTX đã hoàn thành; các quận, huyện,
thị xã đã khẩn trương triển khai chuyển đổi dữ liệu, tuy
nhiên do có những khó khăn trong quá trình thực hiện nên một số quận, huyện
chưa hoàn thành việc chuyển đổi dữ liệu theo kế hoạch. Đối với việc đăng ký
thành lập mới, hiện nay, 100% hồ sơ đăng ký HTX, liên hiệp HTX trên địa bàn
Thành phố đã được tiếp nhận, xử lý, phê duyệt trên Hệ thống
thông tin Quốc gia về đăng ký hợp tác
xã.
- Việc thực hiện chế độ báo cáo về
HTX, liên hiệp HTX theo quy định tại Thông tư 03/2014/TT-BKHĐT ngày 26/5/2014 của
Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Điều 24, 25) và Thông tư số 07/2019/TT-BKHĐT ngày
08/4/2019 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 03/2014/TT-BKHĐT cơ bản
đảm bảo; công tác thông tin, báo cáo của các sở, ngành, quận, huyện, thị xã dần
đi vào nề nếp, góp phần quan trọng trong việc nắm bắt, ra quyết định, chủ
trương, chính sách phát triển KTTT, HTX của Thành phố.
3. Kết quả triển khai chính sách hỗ trợ, ưu đãi hợp
tác xã
Thành phố tiếp tục chỉ đạo các sở
ngành, UBND quận, huyện, thị xã triển khai các chính sách
hỗ trợ HTX theo thẩm quyền, chức năng nhiệm vụ, tập trung thực hiện Quyết định
số 2261/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Chương trình hỗ trợ phát
triển hợp tác xã giai đoạn 2015-2020 lồng ghép Chương trình MTQG Xây dựng nông
thôn mới nhằm thực hiện tiêu chí số 13 về tổ chức sản xuất trong Bộ tiêu chí quốc
gia về xã nông thôn mới giai đoạn 2016-2020; Kế hoạch số 192/KH-UBND ngày
04/10/2018 về thực hiện Chương trình hỗ trợ phát triển HTX trên địa bàn Thành
phố giai đoạn 2019-2020. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19 và thực
hiện giãn cách xã hội, kết quả công tác hỗ trợ về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và
tổ chức hoạt động xúc tiến thương mại thực hiện trong năm 2020 chưa được rõ
nét. Kết quả cụ thể như sau:
3.1. Chính sách đào tạo, bồi
dưỡng nguồn nhân lực
Năm 2020, Liên minh HTX Thành phố, Sở
Nông nghiệp và PTNT tổ chức tập huấn, đào tạo, bồi dưỡng cho 2.675 lượt cán bộ
HTX với tổng kinh phí hỗ trợ là 2.824 triệu đồng; tổ chức
01 lớp tập huấn nâng cao trình độ cho cán bộ làm công tác
quản lý nhà nước về kinh tế hợp tác cho đối tượng là cán bộ các sở, ngành, Liên
minh HTX Thành phố và UBND các quận huyện phụ trách lĩnh vực
KTTT, với tổng kinh phí hỗ trợ 50 triệu đồng.
Về chính sách hỗ trợ thí điểm mô hình
đưa cán bộ trẻ tốt nghiệp đại học, cao đẳng về làm việc có thời hạn tại HTX:
Thành phố đã giao các sở, ngành liên quan tham mưu triển khai chính sách; tuy
nhiên, do nhiều khó khăn, vướng mắc nên hiện nay chưa thực hiện xong.
3.2. Chính sách xúc tiến
thương mại, mở rộng thị trường
Thành phố hỗ trợ các HTX tham gia hội
chợ thương mại, hội thảo tại Hà Nội và các tỉnh, thành phố lớn trong nước, tổ
chức các hội thảo nhằm quảng bá các sản phẩm của HTX. Tiêu biểu như: Tổ chức hội
nghị “Xây dựng mô hình HTX sản xuất kinh doanh gắn với chuỗi giá trị và vai trò
công nghệ 4.0 trong tổ chức sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của HTX theo chuỗi”
cho khoảng 100 lượt HTX, đơn vị tham gia giới thiệu các sản phẩm tiêu biểu của
HTX; tổ chức hội thảo kết hợp quảng bá, xúc tiến thương mại đặc sản vùng miền
và các sản phẩm OCOP của Hà Nội, hội thảo kết hợp trưng bày những sản phẩm OCOP
của Hà Nội và các tỉnh phía Bắc;...
Duy trì hoạt động của Trang thông tin
điện tử giới thiệu nông sản an toàn của Hà Nội (nongsanantoanhanoi.gov.vn) với
nhiều HTX, hàng trăm doanh nghiệp sản xuất, phân phối, chuỗi liên kết của Hà Nội
và các tỉnh tham gia, hàng trăm nghìn lượt truy cập, tìm kiếm thông tin kết nối
trên trang web.
3.3. Chính sách ứng dụng khoa học, kỹ thuật và công nghệ mới
Năm 2020, Sở Khoa học và Công nghệ tiếp
tục hỗ trợ HTX Nấm Minh Nghĩa - huyện Đan Phượng tiến hành dự án sản xuất thử
nghiệm “Hoàn thiện công nghệ, thiết kế, lắp đặt dây chuyền sản xuất nấm hương
và nấm linh chi theo hướng công nghiệp” với kinh phí hỗ trợ (từ nguồn sự nghiệp
khoa học) cả giai đoạn 2018-2020 là 3.103 triệu đồng (chiếm khoảng 50% tổng
kinh phí thực hiện dự án); hỗ trợ triển khai đề tài cấp Thành phố “Các giải
pháp thúc đẩy các HTX nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao
trong sản xuất và tiêu thụ rau, quả ở thành phố Hà Nội” với
kinh phí hỗ trợ cả giai đoạn 2019-2021 là 750 triệu đồng (100% kinh phí); hướng
dẫn, tư vấn xây dựng nhãn hiệu tập thể cho các sản phẩm đặc sản, làng nghề truyền
thống của các HTX; đồng thời phối hợp với Liên minh HTX Thành phố, các sở,
ngành liên quan đề xuất các nhiệm vụ nghiên cứu, chương trình ứng dụng khoa học
công nghệ vào sản xuất của HTX.
3.4.
Chính sách tiếp cận vốn và quỹ hỗ trợ phát triển hợp
tác xã
Thành phố tiếp tục tạo điều kiện để
các HTX tiếp cận nguồn vốn bình đẳng như các thành phần kinh tế khác. Đồng thời,
duy trì và phát triển hoạt động của Quỹ hỗ trợ phát triển HTX nhằm mục đích hỗ
trợ cho các HTX, liên hiệp HTX, tổ hợp tác và thành viên của
HTX vay vốn ưu đãi để đầu tư mở rộng phát triển sản xuất kinh doanh. Năm 2020,
Quỹ hỗ trợ phát triển HTX đã giải ngân được 41 tỷ đồng cho
119 dự án. Trong năm, Liên minh HTX Thành phố cũng đã thực
hiện cơ cấu kỳ hạn trả nợ, gia hạn nợ cho một số HTX trên địa bàn Thành phố để
hỗ trợ HTX bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh Covid-19.
3.5. Chính sách thành lập mới hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã
Năm 2020, các đơn vị đã tư vấn, hỗ trợ
thành lập mới cho 77 HTX với tổng kinh phí hỗ trợ là 1.404 triệu đồng; hỗ trợ tổ
chức lại hoạt động HTX cho 50 HTX với kinh phí 950 triệu đồng.
4. Các giải pháp đã triển khai để hạn chế tác động của dịch bệnh Covid-19 đến khu vực KTTT
Trước diễn biến phức tạp của đại dịch
Covid-19, UBND Thành phố có Chỉ thị số 06/CT-UBND ngày 07/4/2020, theo đó chỉ đạo các sở, ngành thực hiện một số biện
pháp hỗ trợ doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh phải ngừng hoạt động do ảnh
hưởng của đại dịch Covid-19, trong đó có các HTX.
Sở Kế hoạch và Đầu tư đã có Công văn
gửi các sở, ngành, Liên minh HTX Thành phố đề nghị triển khai, hướng dẫn các
HTX để tổ chức thực hiện các giải pháp tháo gỡ khó khăn theo chỉ đạo của Trung
ương và Thành phố; đồng thời rà soát các khó khăn, vướng mắc, gửi về Sở Kế hoạch
và Đầu tư để tổng hợp, báo cáo UBND Thành phố.
Liên minh HTX Thành phố, Sở Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn thường xuyên tuyên truyền đến các HTX về phòng chống đại
dịch Covid-19 và chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về hỗ trợ doanh nghiệp,
cơ sở sản xuất kinh doanh, người lao động.
Cục Thuế Hà Nội đẩy mạnh thực hiện
Nghị định số 41/2020/NĐ-CP ngày 08/4/2020 của Chính phủ về việc gia hạn nộp thuế
và tiền thuê đất: tuyên truyền, hướng dẫn người nộp thuế về điều kiện gia hạn nộp thuế; không thanh tra doanh nghiệp có rủi ro về thuế; tập trung rà soát các
điều kiện gia hạn tiền thuế và tiền thuê đất; xây dựng cơ
sở dữ liệu người nộp thuế thuộc trường hợp được gia hạn, hỗ trợ. Tổng số thuế dự
kiến gia hạn của khối HTX tại Hà Nội khoảng 32,3 tỷ đồng, trong đó thuế đất là
18,15 tỷ đồng. Bên cạnh đó, Cục Thuế Hà Nội cũng tích cực đẩy nhanh rà soát
khoanh nợ theo Nghị quyết số 94/2019/QH14 ngày 26/11/2019
của Quốc Hội về khoanh nợ tiền thuế, xóa nợ tiền chậm nộp phạt đối với người nộp thuế không còn khả năng nộp ngân sách nhà nước; nhiều
đơn vị kinh tế tập thể, HTX nằm trong diện được rà soát khoanh nợ lần này.
UBND các quận, huyện, thị xã đã và
đang khẩn trương triển khai chính sách, cập nhật kịp thời các văn bản chỉ đạo của
Trung ương, Thành phố để thực hiện các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp, HTX, hộ
kinh doanh trên địa bàn; thường xuyên rà soát các thủ tục hành chính để tạo mọi
điều kiện hỗ trợ các thành phần kinh tế phát triển.
Hiện tại, khi dịch bệnh Covid-19 được
kiểm soát, hoạt động của các HTX nói chung đang dần khôi phục trở lại. Các HTX trên địa bàn đang tiến hành sắp xếp lại quy
mô, tổ chức, lựa chọn phương án kinh doanh theo từng ngành nghề để tập trung sản
xuất bù đắp những khó khăn do ảnh hưởng của dịch thời gian qua. Tuy nhiên, với
những tồn tại, hạn chế từ trước, công thêm ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19,
khu vực KTTT sẽ phải đối mặt với nhiều khó khăn.
III. CÁC VẤN ĐỀ TỒN TẠI, HẠN CHẾ,
NGUYÊN NHÂN
1. Tồn tại, hạn chế
- Một số chỉ tiêu kế hoạch năm 2020 chưa
hoàn thành: Chỉ tiêu về số HTX giải thể chỉ đạt được 20 HTX /50 HTX theo kế hoạch;
chính sách hỗ trợ thí điểm mô hình đưa cán bộ trẻ tốt nghiệp
đại học, cao đẳng về làm việc có thời hạn tại HTX chưa thực hiện xong.
- Nhận thức về vai trò, vị trí, tính tất
yếu khách quan của phát triển kinh tế tập thể, mô hình HTX kiểu mới của một số
cán bộ, đảng viên, thành viên HTX và nhân dân chưa đầy đủ.
- Trên địa bàn Thành phố còn hơn 300
HTX ngừng hoạt động, trong đó phần lớn vướng mắc về thủ tục giải thể. Cùng với những tác động của dịch bệnh Covid-19, thêm nhiều HTX hoạt động cầm chừng hoặc tạm ngừng hoạt động.
- Tổng số vốn sản xuất kinh doanh khu
vực kinh tế tập thể chiếm tỷ lệ khiêm tốn; quy mô THT, HTX nhỏ; thu nhập bình
quân đầu người một tháng tăng hàng năm nhưng vẫn ở mức thấp nhất so với các khu
vực kinh tế khác. Năng lực nội tại của các HTX còn hạn chế, các HTX hoạt động
hiệu quả chủ yếu là các HTX mới được thành lập gần đây.
- Nhiều tổ chức KTTT khó khăn, vướng
mắc về trụ sở, đất đai và mặt bằng sản xuất kinh doanh; việc tích lũy vốn đầu
tư phát triển còn thấp, khó khăn trong tiếp cận vốn ưu đãi.
- Sự phối hợp giữa các sở, ngành, quận,
huyện, thị xã trong tổ chức thực hiện các chương trình, kế
hoạch, nhiệm vụ phát triển kinh tế tập thể, HTX có lúc chưa chặt chẽ. Một số
khó khăn, vướng mắc, tồn tại của HTX, đặc biệt về đất đai chậm được giải quyết.
2. Nguyên nhân
- Do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 và thực hiện các biện pháp giãn cách xã hội đã tác động nhất định
đến khu vực KTTT.
- Luật HTX năm 2012 còn một số bất cập;
một số chính sách hỗ trợ phát triển HTX còn chậm triển khai và khó thực hiện
trong thực tiễn; nguồn lực thực hiện chính sách hỗ trợ phát
triển HTX chủ yếu từ ngân sách địa phương, một số chính sách được lồng ghép với
những hình thức khác; một số đối tượng thụ hưởng không có tư cách pháp nhân
(THT), khó khăn cho việc tiếp cận thụ hưởng cơ chế, chính sách.
- Công tác kiểm tra, đôn đốc thực hiện
Chương trình, Đề án, Kế hoạch của Thành phố về phát triển KTTT của một số đơn vị
chưa được thường xuyên. Đội ngũ cán bộ làm công tác tham mưu cho cấp ủy, chính
quyền về phát triển KTTT biến động, một số cán bộ chưa được đào tạo, bồi dưỡng
nên có mặt còn hạn chế.
- HTX đa phần có quy mô nhỏ, khả
năng tích lũy hạn chế, trong khi đối tượng phục vụ lại có tính xã
hội cao. Trình độ cán bộ quản lý HTX chưa cao, đa phần chưa qua đào tạo, tầm
nhìn còn hạn chế; thu nhập, chế độ thù lao còn thấp. Sự liên kết giữa các HTX
còn chưa nhiều và chưa mạnh, mô hình liên hiệp HTX chưa phát huy được hiệu quả.
- Một số quận, huyện chưa phân định
rõ chức năng quản lý nhà nước về KTTT giữa Phòng Tài chính - Kế hoạch với Phòng
Kinh tế; một số chính quyền cơ sở còn can thiệp sâu vào công tác quản trị, tổ
chức cán bộ và hoạt động sản xuất kinh doanh của HTX.
Phần thứ hai
KẾ HOẠCH PHÁT
TRIỂN KINH TẾ TẬP THỂ NĂM 2021
I. NỘI DUNG KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN
KINH TẾ TẬP THỂ NĂM 2021
1. Dự báo những thuận lợi,
khó khăn
1.1. Thuận lợi
Năm 2021 và các năm tiếp theo, khu vực
KTTT, HTX thành phố Hà Nội nói riêng có những thuận lợi cơ bản:
- Phát triển KTTT, HTX là một trong
lĩnh vực tiếp tục được Trung ương quan tâm chỉ đạo: Bộ Chính trị có Kết luận số
70-KL/TW ngày 09/3/2020 về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX về
tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả KTTT; Chính phủ ban hành Nghị
quyết số 134/NQ-CP ngày 25/9/2020 ban hành Chương trình hành động của Chính phủ
thực hiện Kết luận số 70-KL/TW của Bộ Chính trị và Quyết định số 1804/QĐ-TTg
ngày 13/11/2020 phê duyệt Chương trình hỗ trợ phát triển KTTT, HTX giai đoạn
2021-2025; Bộ Kế hoạch và Đầu tư triển khai xây dựng Chiến lược phát triển
KTTT, HTX giai đoạn 2021-2030;....
- Thành phố Hà Nội có quy mô dân số lớn
với cơ cấu trẻ, lực lượng lao động có chất lượng cao; là nơi quy tụ được đội
ngũ cán bộ, chuyên gia, trí thức có trình độ cao; nguồn lực đất đai còn rất lớn.
Hà Nội tiếp tục nhận được sự quan tâm của Trung ương, có sự quyết tâm và trách
nhiệm của các cấp chính quyền, sự ủng hộ của nhân dân trong xây dựng và phát
triển kinh tế - xã hội nói chung, khu vực KTTT nói riêng.
1.2. Khó khăn
- Chính sách hỗ trợ phát triển HTX tuy được quan tâm triển khai song khi đưa vào thực tế còn những
bất cập, một số HTX khó tiếp cận chính sách ưu đãi; HTX trên địa bàn còn gặp
khó khăn, vướng mắc về đất đai, mặt bằng sản xuất, kinh doanh.
- Phần lớn các tổ chức KTTT có quy mô
sản xuất kinh doanh nhỏ; tỷ trọng trong kinh tế Thủ đô còn thấp, sức cạnh tranh
của sản phẩm hàng hóa, dịch vụ chưa cao, năng lực quản lý, quản trị, của một bộ
phận của HTX còn hạn chế; cần tiếp tục có được sự quan tâm của Trung ương,
Thành phố.
- Đại dịch Covid-19 đã, đang và sẽ tiếp
tục tác động lớn đến hầu hết các lĩnh vực kinh tế - xã hội của cả nước và Thủ
đô, làm gián đoạn các chuỗi giá trị sản xuất quan trọng; suy giảm tiêu dùng, dịch
vụ và du lịch; khu vực KTTT cũng bị ảnh hưởng không nhỏ bởi đại dịch này.
2. Mục tiêu
- Tiếp tục khuyến khích, tạo điều kiện
phát triển và nâng cao chất lượng hoạt động của HTX, LH HTX, THT trên địa bàn
Thành phố; đồng thời hướng dẫn, vận động giải thể các HTX ngừng hoạt động trên địa bàn, tạo dư địa thành lập mới các HTX.
- Phục hồi kinh tế tập thể sau dịch bệnh
Covid-19; xây dựng kế hoạch, giải pháp kịp thời trong trường hợp dịch bệnh
Covid-19 bùng phát trở lại và kéo dài nhằm hạn chế tối đa
tác động của dịch bệnh đến khu vực KTTT.
- Xây dựng, ban hành các chương
trình, kế hoạch, đề án về phát triển KTTT giai đoạn 2021-2025 trên địa bàn
Thành phố.
- Phấn đấu đạt
được một số chỉ tiêu cụ thể:
+ Tư vấn, hướng dẫn thành lập mới từ
50 THT, 100 HTX, 02 LH HTX;
+ Số thành viên mới: 3.200 thành
viên;
+ Doanh thu bình quân của HTX: 2.900
triệu đồng/năm;
+ Thu nhập bình
quân của người lao động trong HTX: 54 triệu đồng/năm.
(Chi
tiết tại Phụ lục 1 và
Phụ lục 2 đính kèm)
3. Các nhiệm vụ và giải
pháp phát triển kinh tế tập thể năm 2021
3.1. Xây dựng chương trình, kế hoạch về phát triển
KTTT giai đoạn 2021-2025; tiếp tục thực hiện và hoàn thiện hệ thống văn
bản hướng dẫn thi hành
Luật Hợp tác xã năm 2012.
- Quán triệt, triển khai Nghị quyết số
134/NQ-CP ngày 25/9/2020 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của
Chính phủ thực hiện Kết luận số 70-KL/TW ngày 09/3/2020 của
Bộ Chính trị.
- Hướng dẫn, triển khai Chương trình
hỗ trợ phát triển KTTT, HTX giai đoạn 2021-2025 được ban hành tại Quyết định số
1804/QĐ-TTg ngày 13/11/2020 của Thủ tướng Chính phủ. Trên cơ sở chính sách hỗ
trợ của Trung ương và điều kiện tình hình cụ thể, nghiên cứu
xây dựng chính sách chung về hỗ trợ phát triển KTTT, HTX của
Thành phố giai đoạn mới và các kế hoạch, đề án cụ thể như:
Kế hoạch hỗ trợ đưa cán bộ trẻ có trình độ về làm việc tại
HTX giai đoạn 2021-2025; Đề án phát triển HTX nông nghiệp
trên địa bàn Thành phố giai đoạn 2021-2025; ....
- Rà soát, tổng hợp những khó khăn,
vướng mắc trong tổ chức thực hiện Luật HTX năm 2012, các văn bản quy phạm pháp
luật về KTTT, HTX và đề xuất Trung ương sửa đổi, bổ
sung những nội dung còn thiếu, chưa phù hợp.
3.2. Tuyên truyền, tập huấn
Luật Hợp tác xã năm 2012 và nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực HTX
- Tiếp tục tuyên truyền, quán triệt
chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về
phát triển KTTT, HTX, về các mô hình tiên tiến, hoạt động hiệu quả. Tập trung
tuyên truyền về Kết luận số 70-KL/TW ngày 09/3/2020 của Bộ Chính trị về tiếp tục
thực hiện nghị quyết Trung ương 5 khóa IX về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng
cao hiệu quả kinh tế tập thể; Nghị
quyết số 134/NQ-CP ngày 25/9/2020 ban hành Chương trình hành động của Chính phủ
thực hiện Kết luận số 70-KL/TW của Bộ Chính trị; Quyết định số 1804/QĐ-TTg ngày
13/11/2020 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình
hỗ trợ phát triển KTTT, HTX giai đoạn 2021-2025;...
- Đẩy mạnh tuyên truyền đến các HTX
tiếp tục phòng chống dịch Covid-19 và chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước
về hỗ trợ doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh, người lao động bị ảnh hưởng
do dịch bệnh Covid-19.
- Tổ chức các lớp
tập huấn, bồi dưỡng cho cán bộ quản lý HTX về: các chủ
trương, chính sách, Luật HTX 2012; kỹ năng quản lý điều hành HTX; phương án xây
dựng sản xuất kinh doanh; nghiệp vụ kế toán HTX;... Nghiên cứu, đề xuất Trung ương tổ chức lớp
đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ quản lý nhà nước về KTTT.
3.3. Nâng cao hiệu quả hoạt
động của khu vực KTTT, HTX
- Phát huy vai trò tự chủ, tự chịu
trách nhiệm của các HTX; đồng thời tạo điều kiện cho các
HTX tham gia thực hiện các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội trên
địa bàn.
- Rà soát tình hình hoạt động của các
HTX, qua đó, hỗ trợ, củng cố các HTX hoạt động yếu kém. Xây dựng phương án cụ
thể về việc giải thể các HTX ngừng hoạt
động trên địa bàn, trong đó, tập trung hướng dẫn, vận động các HTX ngừng hoạt động
hoặc hoạt động không hiệu quả tiến hành giải thể tự nguyện;
từng bước tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện giải thể
HTX. Nghiên cứu, hướng dẫn các HTX có hướng đi mới trong điều kiện
dịch bệnh Covid-19, biến thách thức thành cơ hội.
- Tập trung xây dựng các mô hình HTX
điển hình tiên tiến, HTX kiểu mới, hoạt động hiệu quả, thu hút được số đông người
dân tham gia theo cụm liên kết ngành, tạo chuỗi giá trị bền vững cho các sản phẩm công nghiệp chủ lực có quy mô lớn.
3.4. Tăng cường công tác quản
lý nhà nước về kinh tế tập
thể
- Rà soát về cơ
chế, chính sách có liên quan đến phát triển KTTT; chủ động
nắm bắt tình hình, các khó khăn của
HTX để giải quyết kịp thời theo thẩm
quyền; đề xuất
các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho các HTX trong điều kiện dịch bệnh Covid-19
có nguy cơ bùng phát trở lại;
- Tăng cường công tác quản lý nhà nước
về KTTT, HTX theo hướng tăng cường kiểm tra, giám sát tình
hình thực hiện pháp luật của HTX và hỗ trợ, hướng dẫn để tạo
hành lang pháp lý thuận lợi cho HTX hoạt động, tránh tình trạng
buông lỏng hoặc can thiệt quá sâu vào công việc nội bộ của HTX. Thống nhất phân công Phòng Tài chính - Kế hoạch là cơ quan
tham mưu giúp UBND cấp huyện thực hiện chức năng quản lý
nhà nước chung về KTTT, HTX.
- Đẩy nhanh việc chuyển đổi dữ liệu
đăng ký HTX vào Hệ thống Quốc gia về đăng ký HTX.
- Tăng cường phối hợp giữa các sở,
ngành liên quan và Liên minh HTX Thành phố trong công tác quản lý KTTT, trong
kiểm tra, giám sát tình hình hoạt động của KTTT để nắm bắt tình hình, kịp thời
tháo gỡ khó khăn vướng mắc.
3.5. Huy động các lực lượng
xã hội, các tổ chức đoàn thể trong nước và quốc tế
tham gia thúc đẩy phát triển kinh tế tập thể
- Thành phố tiếp tục quan tâm hỗ trợ vốn hoạt động cho các tổ KTTT, thông qua Quỹ hỗ
trợ phát triển HTX, các quỹ tín dụng, ngân hàng; nghiên cứu việc tiếp cận vốn
thông qua hình thức tín chấp. Vận động, huy động vốn từ các tổ chức tín dụng,
nhà tài trợ trong nước, các tổ chức quốc tế.
- Các đoàn thể nhân dân tiếp tục phát
huy và làm tốt hơn nữa công tác tuyên truyền, vận động quần chúng hội viên,
thành viên tham gia phát triển KTTT, HTX, tăng cường phối hợp với Liên minh HTX Thành phố trong phát triển KTTT, HTX.
II. TỔ CHỨC THỰC
HIỆN
1. Giám đốc, Thủ trưởng các sở, ban,
ngành, Liên minh HTX Thành phố; Chủ tịch UBND các quận, huyện, thị xã: Trực tiếp
chỉ đạo thực hiện các nội dung, nhiệm vụ thuộc lĩnh vực, địa bàn phụ trách; xây
dựng chương trình hành động để triển khai Kế hoạch; thường
xuyên kiểm tra, giám sát, đôn đốc và chịu trách nhiệm trước Chủ tịch UBND Thành
phố về việc thực hiện Kế hoạch của UBND Thành phố về phát triển kinh tế tập thể năm 2020.
2. Định kỳ 6 tháng và trước ngày 25
tháng 01 năm tiếp theo, các sở, ban, ngành, UBND các quận, huyện, thị xã đánh
giá kết quả thực hiện Kế hoạch của Thành phố và chương
trình, kế hoạch hành động của đơn vị gửi Sở Kế hoạch và Đầu tư, Liên minh HTX
Thành phố để tổng hợp, báo cáo UBND Thành phố./.
Nơi nhận:
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư; (Để
báo cáo)
- Liên minh HTX Việt Nam; (Để
báo cáo)
- Thường trực Thành ủy; (Để
báo cáo)
- Thường trực HĐND TP; (Để
báo cáo)
- Chủ tịch UBND Thành phố; (Để
báo cáo)
- Các PCT UBND Thành phố;
- Các sở, ngành Thành phố;
- Liên minh HTX Thành phố;
- UBND các quận, huyện, thị xã;
- VP UBND TP: CVP, PCVP,
Các phòng: KT, TKBT, TH;
- Lưu: VT, KT.
|
TM. ỦY BAN NHÂN
DÂN
KT. CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH
Hà Minh Hải
|
PHỤ LỤC 1
TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẬP THỂ NĂM 2020 VÀ KẾ HOẠCH
NĂM 2021
(Kèm theo Kế hoạch số 35/KH-UBND ngày 05/02/2021 của UBND Thành phố)
STT
|
Chỉ tiêu
|
Đơn
vị tính
|
Thực
hiện năm 2019
|
Năm
2020
|
Kế
hoạch năm 2021
|
Kế
hoạch
|
Thực
hiện
|
I
|
Hợp tác xã
|
|
|
|
|
|
1
|
Tổng số hợp tác xã
|
HTX
|
2.084
|
1.992
|
2.164
|
2.229
|
2
|
Tình hình hoạt động của HTX
|
|
|
|
|
|
|
Số hợp tác xã
đang hoạt động
|
HTX
|
1.782
|
1.693
|
1.802
|
2.768
|
|
Số hợp tác xã hoạt động hiệu quả
|
HTX
|
1.158
|
1.020
|
1.175
|
1.287
|
|
Số hợp tác xã thành lập mới
|
HTX
|
119
|
50
|
100
|
100
|
|
Số hợp tác xã
giải thể
|
HTX
|
5
|
|
20
|
35
|
3
|
Tổng số thành viên hợp tác xã
|
Người
|
566.380
|
566.271
|
598.500
|
|
|
Trong đó:
|
|
|
|
|
|
|
Số thành viên mới
|
Thành
viên
|
3.428
|
|
3.200
|
3.200
|
|
Số thành viên ra khỏi hợp tác xã
|
Thành
viên
|
|
|
|
|
4
|
Tổng số
lao động thường xuyên trong hợp tác xã
|
Người
|
44.550
|
44.217
|
45.500
|
48.378
|
|
Trong đó:
|
|
|
|
|
|
|
Số lao động thường xuyên mới
|
Người
|
2.900
|
|
925
|
1.500
|
|
Số lao động
thường xuyên là thành viên hợp tác xã
|
Người
|
41.432
|
44.217
|
44.875
|
44.992
|
5
|
Tổng số cán bộ quản lý hợp tác xã
|
Người
|
7.502
|
7.122
|
6.603
|
7.872
|
|
Trong đó:
|
|
|
|
|
|
|
Số cán bộ quản lý HTX đã qua đào tạo
đạt trình độ sơ, trung cấp
|
Người
|
5.252
|
4.998
|
4.462
|
5.904
|
|
Số cán bộ quản lý HTX đã qua đào tạo
đạt trình độ cao đẳng, đại học trở lên
|
Người
|
1.651
|
1.524
|
2.141
|
1.968
|
6
|
Doanh thu bình quân một hợp tác xã
|
Tr đồng/năm
|
2.495
|
|
2.750
|
2.900
|
7
|
Lãi bình quân một hợp tác xã
|
Tr đồng/năm
|
178
|
180
|
190
|
190
|
8
|
Thu nhập bình quân của lao động thường
xuyên trong hợp tác xã
|
Tr đồng/năm
|
48
|
|
50
|
54
|
II
|
Liên hiệp hợp tác xã
|
|
|
|
|
|
1
|
Tổng số liên hiệp hợp tác xã
|
LH
HTX
|
13
|
14
|
17
|
18
|
2
|
Tình hình hoạt
động của LHHTX
|
|
|
|
|
|
|
Số liên hiệp hợp tác xã đang hoạt động
|
|
8
|
7
|
12
|
13
|
|
Số liên hiệp HTX thành lập mới
|
LH
HTX
|
3
|
1
|
4
|
2
|
|
Số liên hiệp
HTX giải thể
|
LH
HTX
|
|
|
1
|
1
|
3
|
Tổng số hợp tác xã thành viên
|
HTX
|
77
|
|
89
|
98
|
III
|
Tổ hợp tác
|
|
|
|
|
|
1
|
Tổng số tổ hợp tác
|
THT
|
1.493
|
1.533
|
1.543
|
1.593
|
|
Trong đó:
|
|
|
|
|
|
|
Số THT có đăng
ký hoạt động với chính quyền xã/phường/thị trấn
|
THT
|
1.493
|
1.533
|
1.543
|
1.543
|
2
|
Tổng số thành viên tổ hợp tác
|
Thành
viên
|
4.485
|
4.599
|
4.629
|
4.780
|
3
|
Doanh thu bình
quân một tổ hợp tác
|
Tr đồng/năm
|
200
|
|
220
|
|
4
|
Lãi bình quân một tổ hợp tác
|
Tr đồng/năm
|
30
|
|
35
|
|
PHỤ LỤC 2
SỐ LƯỢNG HỢP TÁC XÃ, LIÊN HIỆP HỢP TÁC XÃ, TỔ HỢP TÁC
PHÂN LOẠI THEO NGÀNH NGHỀ NĂM 2020 VÀ KẾ HOẠCH NĂM 2021
(Kèm theo Kế hoạch số 35/KH-UBND ngày 05/02/2021 của UBND Thành phố)
STT
|
Chỉ
tiêu
|
Đơn
vị tính
|
Thực
hiện năm 2019
|
Năm
2020
|
Kế
hoạch năm 2021
|
Kế
hoạch
|
Thực
hiện
|
1
|
HỢP TÁC XÃ
|
|
|
|
|
|
|
Tổng số hợp tác xã
|
HTX
|
2.084
|
1.992
|
2.164
|
2.229
|
|
Chia ra:
|
|
|
|
|
|
|
Hợp tác xã nông nghiệp
|
HTX
|
1.199
|
1.132
|
1.262
|
1.292
|
|
Hợp tác xã công nghiệp - tiểu thủ
công nghiệp
|
HTX
|
290
|
285
|
293
|
302
|
|
Hợp tác xã xây dựng
|
HTX
|
23
|
13
|
23
|
24
|
|
Hợp tác xã tín dụng
|
HTX
|
98
|
98
|
98
|
98
|
|
Hợp tác xã thương mại
|
HTX
|
248
|
339
|
253
|
260
|
|
Hợp tác xã vận tải
|
HTX
|
182
|
77
|
189
|
194
|
|
Hợp tác xã khác
|
HTX
|
44
|
48
|
46
|
59
|
2
|
LIÊN
HIỆP HỢP TÁC XÃ
|
|
|
|
|
|
|
Tổng số LH hợp tác xã
|
LHHTX
|
13
|
12
|
17
|
18
|
|
Chia ra:
|
|
|
|
|
|
|
LH hợp tác xã nông nghiệp
|
LHHTX
|
4
|
5
|
7
|
8
|
|
LH hợp tác xã công nghiệp - tiểu thủ
công nghiệp
|
LHHTX
|
1
|
1
|
1
|
1
|
|
LH hợp tác xã xây dựng
|
LHHTX
|
2
|
1
|
2
|
2
|
|
LH hợp tác xã tín dụng
|
LHHTX
|
|
|
|
|
|
LH hợp tác xã thương mại
|
LHHTX
|
4
|
3
|
4
|
4
|
|
LH hợp tác xã vận tải
|
LHHTX
|
2
|
2
|
3
|
3
|
|
LH hợp tác xã khác
|
LHHTX
|
|
|
|
|
3
|
TỔ HỢP
TÁC
|
|
|
|
|
|
|
Tổng số tổ hợp
tác
|
THT
|
1.493
|
1.490
|
1.543
|
1.593
|
|
Chia ra:
|
|
|
|
|
|
|
Tổ hợp tác
nông nghiệp
|
THT
|
1.006
|
1.008
|
1.049
|
1.115
|
|
Tổ hợp tác công nghiệp - tiểu thủ
công nghiệp
|
THT
|
395
|
406
|
417
|
414
|
|
Tổ hợp tác xây
dựng
|
THT
|
|
|
|
|
|
Tổ hợp tác tín
dụng
|
THT
|
|
|
|
|
|
Tổ hợp tác thương mại
|
THT
|
|
|
|
|
|
Tổ hợp tác vận tải
|
THT
|
|
|
|
|
|
Tổ hợp tác khác
|
THT
|
92
|
76
|
77
|
64
|