Kế hoạch 32/KH-UBND năm 2021 về phát triển kinh tế tập thể trên địa bàn thành phố Hà Nội giai đoạn 2021-2025

Số hiệu 32/KH-UBND
Ngày ban hành 03/02/2021
Ngày có hiệu lực 03/02/2021
Loại văn bản Kế hoạch
Cơ quan ban hành Thành phố Hà Nội
Người ký Hà Minh Hải
Lĩnh vực Doanh nghiệp

ỦY BAN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 32/KH-UBND

Hà Nội, ngày 03 tháng 02 năm 2021

 

KẾ HOẠCH

PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẬP THỂ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI GIAI ĐOẠN 2021-2025

Phần thứ nhất

TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẬP THỂ, HỢP TÁC XÃ GIAI ĐOẠN 2016-2020

I. TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẬP THỂ, HỢP TÁC XÃ GIAI ĐOẠN 2016-2020

1. Tình hình chung

1.1. Tổ hợp tác (THT)

Tổng số THT trên địa bàn là 1.543 THT (tăng 755 THT so với năm 2016); trong đó có: 1.049 THT nông nghiệp, 417 THT công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp và 77 THT thuộc các lĩnh vực khác, số thành viên THT là 4.629 thành viên. Doanh thu bình quân của THT đạt 220 triệu đồng/năm.

Nhìn chung, trong những năm qua, mô hình THT đã thể hiện được bản chất của kinh tế tập thể (KTTT), là mô hình phù hợp với thực tế trong việc hỗ trợ kinh tế hộ gia đình phát triển, đặc biệt là khu vực nông thôn, ngoại thành Hà Nội; đã đáp ứng và khắc phục được một số mặt hạn chế của kinh tế hộ như: thiếu vốn, thiếu công cụ, kỹ thuật và kinh nghiệm sản xuất; tăng sức cạnh tranh thị trường. Lãi bình quân 01 THT đem lại giá trị khoảng 35 triệu đồng/năm. Thu nhập bình quân của các thành viên, lao động của THT trung bình từ 3 đến 5 triệu đồng/người/tháng, góp phần tạo việc làm, xóa đói, giảm nghèo và nâng cao đời sống cho các hộ thành viên và nhân dân.

Tuy nhiên, THT trên địa bàn Thành phố có quy mô nhỏ, chủ yếu ở mức độ nhóm hộ và hoạt động khép kín trong một thôn, xã; ít có THT liên thôn, liên xã; chưa liên kết, hợp tác thường xuyên với các nhóm sản xuất kinh doanh, các nhà khoa học, doanh nghiệp... Các THT còn gặp nhiều khó khăn trong quan hệ giao dịch kinh tế nên chưa tranh thủ được các chính sách ưu đãi của Nhà nước; chưa thu hút được nhiều thành viên tham gia; thu nhập của thành viên từ hoạt động của THT chưa cao.

1.2. Hợp tác xã (HTX)

Thành phố có 2.164 HTX và quỹ tín dụng nhân dân - gọi chung là HTX (tăng 400 HTX so với năm 2016), trong đó số HTX đang hoạt động là 1.802 HTX. Giai đoạn 2016-2020, số lượng HTX thành lập mới là 555 HTX, số HTX giải thể là 202 HTX. Đến nay, đa số các HTX đã tiến hành chuyển đổi, đăng ký lại theo Luật HTX năm 2012; chưa có HTX nào chuyển sang loại hình kinh tế khác.

- Số thành viên HTX là 598.500 thành viên (giảm 30.378 thành viên so năm 2016), trong đó số lượng thành viên mới tham gia vào HTX giai đoạn 2016 - 2020 là 12.348 thành viên, số lao động làm việc trong khu vực HTX là 45.500 người (tăng 8.175 lao động so với năm 2016), trong đó số lao động mới cả giai đoạn 2016-2020 là 9.825 HTX.

- Tổng số vốn của HTX là 14.008.423 triệu đồng; tổng giá trị tài sản của HTX là 3.201.000 triệu đồng.

- Doanh thu bình quân 01 HTX là 2.750 triệu đồng/năm; lãi bình quân 01 HTX đạt 190 triệu/năm; thu nhập bình quân của lao động thường xuyên trong HTX là 50 triệu đồng/năm. Các chỉ tiêu này tăng đều qua các năm từ 2016 đến 2020.

- Tổng số nợ đọng của HTX: Theo số liệu thống kê từ các quận, huyện, thị xã, tính đến thời điểm 31/12/2018, số tiền nợ đọng của HTX ngừng hoạt động trên địa bàn Thành phố là: 42.958,895 triệu đồng.

- Số HTX hoạt động hiệu quả theo Luật Hợp tác xã 2012: số HTX hoạt động hiệu quả năm 2020 ước đạt 1.175 HTX, chiếm 65,2% số HTX đang hoạt động (tăng so với năm 2016 - có 821 HTX hoạt động hiệu quả, chiếm 55%). Giai đoạn 2016-2020, Thành phố có thêm nhiều mô hình HTX hoạt động hiệu quả. Các mô hình HTX mới hình thành quy mô thành viên trung bình từ 07 - 30 người, hoạt động chủ yếu theo từng chuyên ngành, đa số thành viên HĐQT là những người có năng lực trình độ chuyên môn nghiệp vụ, mạnh dạn trong đầu tư, chủ động tìm kiếm đối tác, liên kết sản xuất kinh doanh; nhiều mô hình HTX ứng dụng công nghệ cao, sản xuất theo quy trình Vietgap, tiêu chuẩn hữu cơ, áp dụng truy xuất nguồn gốc sản phẩm, tem nhãn, bao bì... góp phần tăng giá trị sản phẩm của HTX. Việc cung cấp dịch vụ của HTX cho hộ thành viên HTX có hỗ trợ về giá so với giá cả thị trường và địa phương, chi phí sản xuất của thành viên giảm so với các hộ không phải là thành viên và việc tiêu thụ sản phẩm của HTX luôn có sự ưu tiên cho hộ thành viên của HTX...; do vậy, thu nhập của hộ thành viên HTX cao hơn so với các hộ không phải thành viên HTX.

- Số lượng cán bộ quản lý HTX là 7.682 HTX, trong đó số lượng cán bộ quản lý đạt trình độ sơ, trung cấp là 5.378 người (chiếm 70%); số lượng cán bộ quản lý đạt trình độ cao đẳng, đại học trở lên là 1.844 người. Năm 2020, số cán bộ HTX được đóng bảo hiểm xã hội là 3.078 người.

1.3. Liên hiệp HTX (LH HTX)

Đến nay, trên địa bàn Thành phố có 17 liên hiệp HTX (tăng 09 liên hiệp HTX so với năm 2016), trong đó số lượng LHHTX đang hoạt động 10 LHHTX, ngừng hoạt động 07 LHHTX. Giai đoạn 2016-2020 có 09 LH HTX thành lập mới và 01 LH HTX giải thể.

Số HTX thành viên là 89 HTX (tăng 48 thành viên so với năm 2016) trong đó số lượng HTX thành viên mới tham gia vào LHHTX là 48 HTX.

Tổng số vốn hoạt động của LH HTX là 143.158 triệu đồng, tăng 123.458 triệu đồng so với năm 2016.

LH HTX đang hoạt động chủ yếu là các HTX thành lập từ năm 2016 trở lại đây. Các LHHTX này đã từng bước tổ chức liên kết, mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, tạo cơ hội cho nhiều đơn vị thành viên phát triển. Một số LHHTX đã có kết quả hoạt động tốt, cung cấp sản phẩm rộng rãi cho toàn Thành phố và các tỉnh lân cận.

Tuy nhiên, còn một số LHHTX chưa tổ chức lại theo Luật HTX năm 2012, dẫn đến ngừng hoạt động là do đều gặp khó khăn trong hoạt động, trình độ quản lý điều hành còn thấp, thiếu phương án sản xuất kinh doanh, dịch vụ khả thi, sự liên kết giữa các HTX thành viên chưa được nhiều. Khả năng tiếp thu tiến bộ kỹ thuật, công nghệ mới vào sản xuất còn hạn chế, chưa phát huy được hiệu quả.

(Chi tiết tại Phụ lục 1 và Phụ lục 2 đính kèm)

2. Tình hình phát triển KTTT theo ngành, lĩnh vực

2.1. Lĩnh vực nông nghiệp

Thành phố có 1.262 HTX nông nghiệp (tăng 214 HTX so với năm 2016) và 07 LHHTX nông nghiệp (tăng 04 LHHTX so với năm 2016).

[...]