HIỆP ĐỊNH
GIỮA
CHÍNH PHỦ CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM VÀ CHÍNH PHỦ CỘNG HOÀ PHÁP VỀ
KHUYẾN KHÍCH VÀ BẢO HỘ ĐẦU TƯ
Chính phủ Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và
Chính phủ Cộng hoà Pháp, sau đây gọi là “các Bên ký kết”,
Mong muốn tăng cường hợp tác kinh tế giữa hai
Nhà nước và tạo những điều kiện thuận lợi cho việc đầu tư cho nhau của nước
Việt Nam ở Pháp và của nước Pháp ở Việt Nam,
Tin tưởng rằng việc khuyến khích và bảo hộ đầu
tư nhằm khuyến khích đầu tư vốn và chuyển giao kỹ thuật giữa hai nước, vì lợi
ích phát triển kinh tế của hai nước:
Đã thoả thuận những điều khoản sau đây:
Điều 1
Để thực hiện Hiệp định
này:
1. Thuật ngữ “đầu tư” chỉ những của cải như tài
sản, quyền và lợi ích các loại và chủ yếu đặc biệt, nhưng không phải chỉ là:
a) Các động sản và bất động sản, cũng như mọi
quyền thực tế khác như quyền thế chấp, quyền ưu đãi, quyền thu hoa lợi, quyền
bảo lãnh và các quyền tương tự;
b) Các cổ phần, tiền tưởng phát hành cổ phiếu
và các hình thức tham gia khác kể cả hình thức tham gia thiểu số hay gián tiếp
vào các công ty được thành lập trên lãnh thổ của một trong hai Bên ký kết;
c) Những trái phiếu, quyền về trái vụ và các
quyền về các dịch vụ cung cấp có giá trị kinh tế;
d) Quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp (như
bằng sáng chế, phát minh, li-xăng, nhãn hiệu đăng ký, kiểu mẫu và hình mẫu công
nghiệp), qui trình kỹ thuật, tên gọi đăng ký và khách hàng;
e) Những tô nhượng theo luật pháp hoặc theo hợp
đồng, nhất là những tô nhượng về thăm dò, nuôi trồng, đào ở dưới đất hoặc khai
thác tài nguyên thiên nhiên, kể cả những tài nguyên nằm trong các vùng biển của
các Bên ký kết.
Đương nhiên các tài sản nói trên phải được đầu
tư hoặc đã được đầu tư phù hợp với luật pháp của Bên ký kết trên lãnh thổ hay
trong vùng biển của Bên đó bao gồm việc đầu tư được tiến hành trước hoặc sau
khi Hiệp định này có hiệu lực.
Mọi sửa đổi về hình thức đầu tư các tài sản
không ảnh hưởng đến tính chất đầu tư tài sản đó, miễn là sự sửa đổi đó không
trái với luật pháp của Bên ký kết, trên lãnh thổ hay trong các vùng biển của
Bên đó mà việc đầu tư được thực hiện.
1. Thuật ngữ “công dân” chỉ những cá nhân có
quốc tịch của một Bên ký kết.
2. Thuật ngữ “công ty” chỉ những pháp nhân được
thành lập trên lãnh thổ của một Bên ký kết phù hợp với luật pháp của Bên đó và
có trụ sở ở đó, hoặc những pháp nhân chịu sự kiểm soát trực tiếp hay gián tiếp
của công dân của một Bên ký kết, hoặc sự kiểm soát trực tiếp hay gián tiếp của
các pháp nhân có trụ sở tại lãnh thổ của một Bên ký kết và được thành lập phù
hợp với luật pháp của Bên đó.
3. Thuật ngữ “thu nhập” chỉ mọi khoản thu được
trong một vụ đầu tư, như các khoản lợi nhuận, tiền thuê, khoản lãi thu được
trong một giai đoạn nhất định.
Các khoản thu nhập từ đầu tư và trong trường
hợp tái đầu tư, thu nhập từ tái đầu tư cũng được hưởng sự bảo hộ như đối với
đầu tư.
4. Thuật ngữ “các vùng biển” chỉ các vùng biển
và dưới biển mà các Bên ký kết thực hiện chủ quyền, những quyền của chủ quyền
hay quyền tài phán, phù hợp với luật pháp quốc tế.
Điều 2
Trong khuôn khổ luật
pháp quốc gia và các điều khoản của Hiệp định này, mỗi Bên ký kết chấp nhận và
khuyến khích việc đầu tư của công dân và công ty của Bên ký kết kia trên lãnh
thổ và trong các vùng biển của mình.
Điều 3
Mỗi Bên ký kết cam kết
bảo đảm đối xử công bằng và thoả đáng, phù hợp với các nguyên tắc của luật pháp
quốc tế đối với đầu tư của các công dân và công ty của Bên ký kết kia trên lãnh
thổ và trong các vùng biển của mình và bảo đảm cho việc thực hiện các quyền
được thừa nhận trên đây không bị cản trở về luật pháp cũng như trên thực tế.
Điều 4
Mỗi Bên ký kết áp dụng,
trên lãnh thổ và trong các vùng biển của mình, đối với công dân hoặc công ty
của Bên ký kết kia về đầu tư của họ và những hoạt động liên quan đến đầu tư đó,
sự đối xử có thể so sánh tương đương với sự đối xử đối với công dân hoặc công
ty nước mình và không kém thuận lợi hơn ưu đãi dành cho công dân hoặc công ty
của nước hưởng quyền ưu đãi nhất. Về điểm này, những công dân được phép làm
việc trên lãnh thổ và trong các vùng biển của một Bên ký kết được hưởng những thuận
lợi vật chất thích hợp để thực hiện các hoạt động nghề nghiệp của họ.
Tuy nhiên, sự đối xử này không bao hàm những ưu
đãi mà một Bên ký kết dành cho công dân hay công ty của nước thứ ba do tham gia
hay liên kết trong một khu vực tự do mậu dịch, một liên minh thuế quan, một thị
trường chung, một tổ chức tương trợ kinh tế hoặc mọi hình thức tổ chức kinh tế
khu vực.
Điều 5
1. Những đầu tư của công
dân hoặc công ty của một Bên ký kết trên lãnh thổ và trong các vùng biển của
Bên ký kết kia được hưởng sự bảo hộ và an toàn đầy đủ và hoàn toàn.
2. Các Bên ký kết không thực hiện các biện pháp
trưng thu hoặc quốc hữu hoá hoặc những biện pháp tước quyền sở hữu trực tiếp
hay gián tiếp của công dân và công ty của Bên ký kết kia đối với những đầu tư
thuộc sở hữu của họ trên lãnh thổ và trong các vùng biển của mình nếu như không
phải vì lý do lợi ích công cộng với điều kiện những biện pháp này không có tính
chất phân biệt đối xử và không được trái với một cam kết riêng.
Những biện pháp tước quyền sở hữu có thể được
thi hành phải tính đến việc bồi thường nhanh chóng và đầy đủ. Khoản bồi thường
được tính trên giá trị thực của các khoản đầu tư có liên quan và phải được đánh
giá trong điều kiện tình hình kinh tế bình thường và trước khi có sự đe doạ
tước quyền sở hữu.
Tổng số tiền bồi thường và thể thức trả tiền
bồi thường được ấn định muộn nhất vào ngày tước quyền sở hữu. Khoản bồi thường
này phải thực hiện được, trả không chậm trễ và được chuyển tự do. Cho đến ngày
trả tiền, khoản bồi thường này được sinh lời theo lãi xuất được các Bên ký kết
thoả thuận.
3. Công dân hoặc công ty của Bên ký kết có các
khoản đầu tư bị thiệt hại do chiến tranh hoặc xung đột vũ trang, do cách mạng,
tình trạng khẩn cấp quốc gia hoặc các cuộc nổi dậy diễn ra trên lãnh thổ hoặc
trong các vùng biển của Bên ký kết kia sẽ được Bên đó cho hưởng sự đối xử không
kém thuận lợi hơn sự đối xử mà Bên đó dành cho công dân hoặc các công ty nước
mình hoặc dành cho công dân hoặc công ty nước được hưởng quyền ưu đãi nhất.
Điều 6
Mỗi Bên ký kết cho công
dân hay công ty của Bên ký kết kia đầu tư trên lãnh thổ hay trong các vùng biển
của mình được tự do chuyển:
a) Lãi, lợi tức cổ phần, lợi nhuận và những
khoản thu nhập thông thường khác;
b) Các khoản thu từ các quyền vô hình nói ở
khoản 1 mục d) và e) của điều 1;
c) Các khoản trả cho các khoản vay nợ thường
xuyên.
d) Do nhượng hay thanh lý toàn bộ hay một phần
đầu tư, kể cả phần giá trị cao hơn vốn đầu tư.
e) Các khoản bồi thường mất quyền sở hữu hoặc
do những tổn thất nêu ở điều 5 đoạn 2 và 3 trên đây;
Công dân của một Bên ký kết được phép làm việc
trên lãnh thổ hoặc trong các vùng biển của Bên ký kết kia trong khuôn khổ một
vụ đầu tư đã được chấp thuận cũng được chuyển về nước một số lượng thích hợp
thu nhập của mình.
Việc chuyển các khoản trên đây được thực hiện
không chậm trễ theo tỷ giá hối đoái chính thức áp dụng vào ngày chuyển.
Điều 7
Trong giới hạn các qui
định của một Bên ký kết về bảo đảm đầu tư nước ngoài, sự bảo đảm đó có thể được
áp dụng cho từng trường hợp một đối với đầu tư của công dân hay công ty của Bên
ký kết này trên lãnh thổ hay trong các vùng biển của Bên ký kết kia.
Đầu tư của công dân và công ty của một Bên ký
kết trên lãnh thổ hay trong các vùng biển của Bên ký kết kia chỉ được hưởng sự
bảo đảm nói ở đoạn trên nếu có sự đồng ý trước của Bên ký kết này.
Điều 8
1. Mọi tranh chấp đầu tư
giữa một Bên ký kết với một công dân hoặc một công ty của Bên ký kết kia phải
cố gắng giải quyết bằng hoà giải giữa hai Bên liên quan.
2. Nếu sự tranh chấp không giải quyết được
trong thời hạn 6 tháng kể từ khi vụ tranh chấp được một trong hai Bên nêu ra,
thì theo yêu cầu của một Bên, vụ tranh chấp sẽ được đưa ra Trọng tài. Vụ tranh
chấp được giải quyết theo bản qui định về Trọng tài của Uỷ ban Liên hiệp quốc
về luật thương mại quốc tế được Đại hội đồng Liên hiệp quốc thông qua trong
Nghị quyết 31/98 ngày 15/12/1976.
Khi các Bên ký kết tham gia Công ước về giải
quyết các tranh chấp về đầu tư giữa các quốc gia và những người có quốc tịch
nước khác, ký tại Washington ngày 18/3/1965, Trung tâm Quốc tế giải quyết các
tranh chấp về đầu tư (CIRDI) sẽ được thay thế cho thủ tục nói ở đoạn trên trong
việc giải quyết bằng Trọng tài các tranh chấp giữa một Bên ký kết với công dân
và công ty của bên ký kết kia.
Điều 9
Nếu một Bên ký kết căn
cứ vào sự bảo đảm dành cho việc đầu tư được tiến hành trên lãnh thổ hoặc trong
các vùng biển của Bên kia, trả tiền cho một công dân hoặc một công ty của nước
mình, thì bằng việc này, Bên ký kết này thay thế quyền và hoạt động của công
dân hay công ty đó.
Việc trả tiền trên đây không ảnh hưởng đến
quyền của người được hưởng sự bảo đảm thực hiện thủ tục nêu ở Điều 8 hoặc tiến
hành vụ kiện cho đến khi kết thúc thủ tục này.
Điều 10
Những đầu tư là đối
tượng của một cam kết đặc biệt của một Bên ký kết với các công dân và công ty
của Bên ký kết kia không tuỳ thuộc với quy định của Hiệp định này được áp dụng
những điều khoản của cam kết đó nếu cam kết đó có những điều khoản thuận lợi
hơn những điều khoản Hiệp định này.
Điều 11
1. Những tranh chấp liên
quan đến việc giải thích hoặc áp dụng Hiệp định này nếu có thể được giải quyết
bằng đường ngoại giao;
2. Nếu trong vòng 6 tháng kể từ khi việc tranh
chấp được một Bên ký kết nêu ra mà không được giải quyết, thì theo yêu cầu của
một Bên ký kết, vụ tranh chấp được đưa ra Toà án trọng tài;
3. Toà án trọng tài được thành lập cho từng
trường hợp cụ thể theo cách sau đây:
Mỗi Bên ký kết chỉ định một thành viên và hai
thành viên đó thoả thuận chỉ định một công dân một nước thứ ba. Hai Bên ký cử
công dân này làm chủ tịch. Tất cả các thành viên được cử ra trong vòng 3 tháng
kể từ ngày một Bên ký kết thông báo cho Bên kia ý định đưa vụ tranh chấp ra
trọng tài.
4. Nếu những thời hạn ấn định ở đoạn 3 trên đây
không được tuân thủ và không có bất kỳ thoả thuận nào khác thì một Bên ký kết
sẽ yêu cầu Tổng thư ký Liên hiệp quốc tiến hành việc chỉ định cần thiết. Nếu
Tổng thư ký Liên hiệp quốc là công dân của một Bên ký kết, hoặc nếu vì lý do
khác, Tổng thư ký không thể thực hiện chức năng này, thì Phó Tổng thư ký có
thâm niên lâu nhất và không có quốc tịch của một Bên ký kết sẽ tiến hành việc
chỉ định cần thiết.
5. Toà án trọng tài thông qua quyết định của
mình theo thể thức đa số phiếu. Các quyết định này là cuối cùng và có đầy đủ
hiệu lực thi hành đối với các Bên ký kết.
Toà án tự qui định việc tố tụng của mình. Tòa
án giải thích bản án theo yêu cầu của Bên ký kết này hoặc Bên ký kết kia. Trừ
trường hợp Toà án có qui định khác căn cứ vào những hoàn cảnh đặc biệt, lệ phí
trọng tài, kể cả thù lao cho các trọng tài viên được chia đều cho các Bên.
Điều 12
Mỗi Bên ký kết thông
báo cho Bên kia việc hoàn thành các thủ tục ở trong nước cần có để Hiệp định
này có hiệu lực. Hiệp định này có hiệu lực sau một tháng kể từ ngày nhận được
thông báo cuối cùng.
Hiệp định này được ký cho thời hạn đầu tiên là
10 năm. Sau thời hạn đó, Hiệp định sẽ tiếp tục có hiệu lực, trừ khi một Bên ký
kết huỷ bỏ bằng đường ngoại giao, với việc thông báo trước 1 năm.
Khi kết thúc thời hạn có hiệu lực của Hiệp định
này, các vụ đầu tư được thực hiện trong thời hạn Hiệp định có hiệu lực tiếp tục
được hưởng sự bảo hộ của những điều khoản của Hiệp định này trong thời gian
thêm là 20 năm.
Làm tại Paris ngày 26 tháng 5 năm 1992 thành
hai bản chính, mỗi bản bằng tiếng Việt Nam và bằng tiếng Pháp, hai bản có giá
trị ngang nhau.
THAY MẶT CHÍNH PHỦ
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
BỘ TRƯỞNG BỘ NGỌAI GIAO
Nguyễn Mạnh Cầm
|
THAY MẶT CHÍNH PHỦ
CỘNG HOÀ PHÁP
THỦ TƯỚNG
Pierre Beregovoy
|
Paris, ngày 26 tháng 5 năm 1992
Thưa Ngài Thủ tướng
Tôi rất hân hạnh đã nhận được thư của Ngài ngày
hôm nay, nội dung như sau:
Về việc giải thích Hiệp định ký ngày hôm nay
giữa Chính phủ Cộng hoà Pháp và Chính phủ Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam về
khuyến khích và bảo hộ đầu tư tôi xin làm rõ như sau:
1. Những điểm liên quan tới Điều 3:
a) Được coi như cản trở về luật pháp hoặc trên
thực tế về sự đối xử công bằng và thoả đáng là: những hạn chế trong việc mua và
vận chuyển nguyên liệu chính và phụ, năng lượng, nhiên liệu cũng như những tư
liệu sản xuất và kinh doanh khác; những hạn chế trong việc bán và vận chuyển
các sản phẩm cũng như các biện pháp khác có hậu quả tương tự;
b) Các Bên ký kết sẽ xem xét thuận lợi trong
khuôn khổ luật pháp của mình, những yêu cầu nhập cảnh cư trú, làm việc và đi
lại của các công dân của một Bên ký kết, có liên quan đến đầu tư trên lãnh thổ
của Bên ký kết kia.
2. Những điểm liên quan đến Điều 4:
Sự đối xử có thể so sánh tương đương được hiểu
một cách tổng thể, có tính đến những đặc điểm riêng biệt về kinh tế và xã hội
của mỗi nước.
3. Những điểm liên quan đến Điều 5:
Tỷ suất lãi do các Bên ký kết chấp nhận là tỷ
suất lãi chính thức quyền ấn định đặc biệt do FMI xác định.
Tôi xin thông báo với Ngài sự chấp thuận của
Chính phủ tôi về nội dung công hàm của Ngài.
Tôi xin gửi Ngài lời chào trân trọng.
|
BỘ TRƯỞNG BỘ NGOẠI
GIAO
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Nguyễn Mạnh Cầm
|
Ngài thủ tướng Cộng hoà Pháp
Paris, ngày 26 tháng 5 năm
1992
Thưa Ngài Bộ trưởng,
Về việc giải thích Hiệp định ký ngày hôm nay
giữa Chính phủ Cộng hoà Pháp và Chính phủ Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam về
khuyến khích và bảo hộ đầu tư tôi xin làm rõ như sau:
1. Những điểm liên quan tới Điều 3:
a) Được coi như cản trở về luật pháp hoặc trên
thực tế về sự đối xử công bằng và thoả đáng là: những hạn chế trong việc mua và
vận chuyển nguyên liệu chính và phụ, năng lượng, nhiên liệu cũng như những tư
liệu sản xuất và kinh doanh khác; những hạn chế trong việc bán và vận chuyển
các sản phẩm cũng như các biện pháp khác có hậu quả tương tự;
b) Các Bên ký kết sẽ xem xét thuận lợi trong
khuôn khổ luật pháp của mình, những yêu cầu nhập cảnh cư trú, làm việc và đi
lại của các công dân của một Bên ký kết, có liên quan đến đầu tư trên lãnh thổ
của Bên ký kết kia.
2. Những điểm liên quan đến Điều 4:
Sự đối xử có thể so sánh tương đương được hiểu
một cách tổng thể, có tính đến những đặc điểm riêng biệt về kinh tế và xã hội
của mỗi nước.
3. Những điểm liên quan đến Điều 5:
Tỷ suất lãi do các Bên ký kết chấp nhận là tỷ
suất lãi chính thức quyền ấn định đặc biệt do FMI xác định.
Trân trọng đề nghị Ngài thông báo cho tôi sự
chấp thuận của Chính phủ Ngài về nội dung công hàm này.
Tôi xin gửi Ngài lời chào trân trọng.
|
THỦ TƯỚNG
CỘNG HOÀ PHÁP
Pierre BEREGOVOY
|
Ngài bộ trưởng bộ ngoại giao Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa
Việt
Nam