Thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng cho con sau khi ly hôn được quy định thế nào?

Thỏa thuận trong Quyết định ly hôn là chồng nuôi hai con, không cần trợ cấp. Nhưng thực tế chồng để em nuôi, một tháng phụ cấp 6 triệu. Giờ chồng không gửi tiền trợ cấp em phải làm sao? Thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng cho con sau khi ly hôn được quy định thế nào?

Nội dung chính

    Thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng cho con sau khi ly hôn được quy định thế nào?

    Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn như sau:

    Thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn
    1. Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều này, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.
    2. Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con được giải quyết khi có một trong các căn cứ sau đây:
    a) Cha, mẹ có thỏa thuận về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phù hợp với lợi ích của con;
    b) Người trực tiếp nuôi con không còn đủ điều kiện trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
    3. Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phải xem xét nguyện vọng của con từ đủ 07 tuổi trở lên.
    4. Trong trường hợp xét thấy cả cha và mẹ đều không đủ điều kiện trực tiếp nuôi con thì Tòa án quyết định giao con cho người giám hộ theo quy định của Bộ luật dân sự.
    5. Trong trường hợp có căn cứ theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều này thì trên cơ sở lợi ích của con, cá nhân, cơ quan, tổ chức sau có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con:
    a) Người thân thích;
    b) Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình;
    c) Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em;
    d) Hội liên hiệp phụ nữ

    Trường hợp mà bạn nêu, theo thỏa thuận của bạn và chồng cũ thì chồng bạn là người trực tiếp nuôi con. Tuy nhiên, thực tế, chồng bạn không thực hiện nghĩa vụ này theo Quyết định ly hôn của Tòa án, theo đó, chồng bạn không trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng các cháu mà để bạn chăm sóc, nuôi dưỡng. Do vậy, bạn có thể thỏa thuận với chồng cũ hoặc có thể tự mình yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con. Căn cứ vào khoản 2 Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình 2014 thì Tòa án sẽ xem xét, quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

    Về phía chồng cũ của bạn, sau khi thay đổi người trực tiếp nuôi con, chồng cũ của bạn có nghĩa vụ cấp dưỡng cho các con theo quy định tại khoản 2 Điều 82 và Điều 110 của Luật hôn nhân và gia đình 2014. Cụ thể, Điều 110 quy định: “Cha, mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con chưa thành niên, con đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình trong trường hợp không sống chung với con hoặc sống chung với con nhưng vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng con”.

    Về mức cấp dưỡng, theo quy định tại Điều 116 của Luật hôn nhân và gia đình 2014 thì mức cấp dưỡng do người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó thỏa thuận căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết. Khi có lý do chính đáng, mức cấp dưỡng có thể thay đổi. Việc thay đổi mức cấp dưỡng do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.

    Về phương thức cấp dưỡng, theo quy định tại Điều 117 của Luật hôn nhân và gia đình 2014, việc cấp dưỡng có thể được thực hiện định kỳ hàng tháng, hàng quý, nửa năm, hàng năm hoặc một lần. Các bên có thể thỏa thuận thay đổi phương thức cấp dưỡng, tạm ngừng cấp dưỡng trong trường hợp người có nghĩa vụ cấp dưỡng lâm vào tình trạng khó khăn về kinh tế mà không có khả năng thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.

    Theo quy định tại Điều 119 của Luật hôn nhân và gia đình 2014 thì người được cấp dưỡng, cha, mẹ hoặc người giám hộ của người đó, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền yêu cầu Tòa án buộc người không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ đó. Các cá nhân, cơ quan, tổ chức sau đây, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền yêu cầu Tòa án buộc người không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ đó: Người thân thích; Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình; Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em; Hội liên hiệp phụ nữ. Cá nhân, cơ quan, tổ chức khác khi phát hiện hành vi trốn tránh thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng có quyền đề nghị cơ quan, tổ chức quy định tại các điểm b, c và d khoản 2 Điều này yêu cầu Tòa án buộc người không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ đó.
    12