Tác phẩm tuyên ngôn của Đảng Cộng sản do ai viết?

Tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản do ai viết? Đảng Cộng sản Việt Nam được tổ chức theo nguyên tắc nào và nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ bao gồm những gì?

Nội dung chính

    Tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản do ai viết?

    Tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản do Karl Marx và Friedrich Engels cùng viết, được công bố lần đầu vào ngày 21/2/1848. Đây là một trong những tác phẩm lý luận chính trị quan trọng nhất trong lịch sử phong trào cách mạng thế giới, đặt nền tảng cho sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa cộng sản.

    Tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã phân tích sâu sắc bản chất của chủ nghĩa tư bản, chỉ ra mâu thuẫn giai cấp giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản, đồng thời khẳng định rằng sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản là tiến hành cách mạng để lật đổ chế độ tư bản, xây dựng một xã hội không còn sự bóc lột, bất công.

    Tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản cũng nhấn mạnh vai trò của đảng cách mạng, đề ra đường lối và phương hướng đấu tranh của giai cấp công nhân nhằm giành lấy chính quyền, thiết lập nền chuyên chính vô sản, tiến tới xã hội cộng sản chủ nghĩa.

    Trải qua hơn một thế kỷ rưỡi, tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản vẫn giữ nguyên giá trị về lý luận và thực tiễn, trở thành kim chỉ nam cho các phong trào cách mạng trên thế giới, đặc biệt là trong phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân nhằm giành lấy quyền tự do, bình đẳng và xây dựng một xã hội công bằng, tiến bộ.

    Tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản do ai viết?

    Tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản do ai viết? (Hình từ Internet)

    Đảng Cộng sản Việt Nam được tổ chức theo nguyên tắc nào và nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ bao gồm những gì?

    Căn cứ Điều 9 Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam 2011 quy định về Đảng Cộng sản Việt Nam được tổ chức theo nguyên tắc nào và nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ bao gồm như sau:

    Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Nội dung cơ bản của nguyên tắc đó là:

    - Cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng do bầu cử lập ra, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.

    - Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng là Đại hội đại biểu toàn quốc. Cơ quan lãnh đạo ở mỗi cấp là đại hội đại biểu hoặc đại hội đảng viên. Giữa hai kỳ đại hội, cơ quan lãnh đạo của Đảng là Ban Chấp hành Trung ương, ở mỗi cấp là ban chấp hành đảng bộ, chi bộ (gọi tắt là cấp uỷ).

    - Cấp uỷ các cấp báo cáo và chịu trách nhiệm về hoạt động của mình trước đại hội cùng cấp, trước cấp uỷ cấp trên và cấp dưới; định kỳ thông báo tình hình hoạt động của mình đến các tổ chức đảng trực thuộc, thực hiện tự phê bình và phê bình.

    - Tổ chức đảng và đảng viên phải chấp hành nghị quyết của Đảng. Thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tổ chức, các tổ chức trong toàn Đảng phục tùng Đại hội đại biểu toàn quốc và Ban Chấp hành Trung ương.

    - Nghị quyết của các cơ quan lãnh đạo của Đảng chỉ có giá trị thi hành khi có hơn một nửa số thành viên trong cơ quan đó tán thành. Trước khi biểu quyết, mỗi thành viên được phát biểu ý kiến của mình.

    Đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số được quyền bảo lưu và báo cáo lên cấp uỷ cấp trên cho đến Đại hội đại biểu toàn quốc, song phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết, không được truyền bá ý kiến trái với nghị quyết của Đảng. Cấp uỷ có thẩm quyền nghiên cứu xem xét ý kiến đó; không phân biệt đối xử với đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số.

    - Tổ chức đảng quyết định các vấn đề thuộc phạm vi quyền hạn của mình, song không được trái với nguyên tắc, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và nghị quyết của cấp trên.

    Chuyên viên pháp lý Nguyễn Mai Bảo Ngọc
    saved-content
    unsaved-content
    11