Nguyên tắc xử lý khi có tổn thất về tài sản đối với khoản nợ của Ngân hàng Phát triển Việt Nam là gì?
Nội dung chính
Nguyên tắc xử lý khi có tổn thất về tài sản đối với khoản nợ của Ngân hàng Phát triển Việt Nam là gì?
Ngày 06/01/2025, Chính phủ đã ban hành Quyết định 02/2025/QĐ-TTg năm 2025 về cơ chế xử lý rủi ro tín dụng tại Ngân hành Phát triển Việt Nam, có hiệu lực thi hành từ 01/03/2025.
Trong đó, căn cứ quy định tại Điều 7 Quyết định 02/2025/QĐ-TTg năm 2025, nguyên tắc xử lý khi có tổn thất về tài sản đối với khoản nợ của Ngân hàng Phát triển Việt Nam như sau:
(1) Xử lý tài sản bảo đảm (nếu có) theo thỏa thuận của các bên và quy định của pháp luật.
(2) Xác định nguyên nhân, trách nhiệm và xử lý tổn thất về tài sản đối với khoản nợ từ các nguồn sau:
- Trường hợp do nguyên nhân chủ quan thì tập thể, cá nhân gây ra tổn thất phải bồi thường theo quy định của pháp luật;
- Trường hợp tài sản đã mua bảo hiểm thì xử lý theo hợp đồng bảo hiểm;
- Sử dụng dự phòng được trích lập trong chi phí để bù đắp theo quy định của pháp luật có liên quan, trừ trường hợp quy định tại Điều 8 Quyết định 02/2025/QĐ-TTg năm 2025;
- Giá trị tổn thất sau khi đã bù đắp bằng tiền bồi thường của tập thể, cá nhân, tổ chức bảo hiểm và sử dụng dự phòng được trích lập trong chi phí, trường hợp thiếu được bù đắp bằng quỹ dự phòng tài chính của Ngân hàng Phát triển theo quy định của pháp luật. Trường hợp quỹ dự phòng tài chính không đủ bù đắp thì phần thiếu được hạch toán vào chi phí khác trong kỳ của Ngân hàng Phát triển.
Như vậy, việc xử lý tổn thất về tài sản tại Ngân hàng Phát triển Việt Nam được thực hiện theo các nguyên tắc nêu trên.
Nguyên tắc xử lý khi có tổn thất về tài sản đối với khoản nợ của Ngân hàng Phát triển Việt Nam là gì? (Hình từ Internet)
Nguyên tắc quản lý tài chính tại Ngân hành Phát triển Việt Nam là gì?
Căn cứ quy định tại Điều 4 Nghị định 46/2021/NĐ-CP, nguyên tắc quản lý tài chính tại Ngân hàng Phát triển Việt Nam như sau:
(1) Ngân hàng Phát triển là ngân hàng chính sách, hoạt động theo mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ, có tư cách pháp nhân, có vốn điều lệ, có bảng cân đối kế toán, có con dấu, được mở tài khoản tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Kho bạc Nhà nước, các ngân hàng thương mại trong nước và nước ngoài theo quy định của pháp luật. Ngân hàng Phát triển là đơn vị hạch toán tập trung toàn hệ thống; tự chủ về tài chính, tự chịu trách nhiệm về hoạt động của mình trước pháp luật; tiến tới tự bù đắp chi phí và rủi ro trong hoạt động. Ngân hàng Phát triển thực hiện quản lý tài chính theo quy định của Nghị định này, đối với các nội dung không quy định tại Nghị định này thì thực hiện theo quy định của pháp luật đối với công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ.
(2) Ngân hàng Phát triển hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận nhằm thực hiện chính sách tín dụng của Nhà nước và các nhiệm vụ khác theo quy định của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; được ngân sách nhà nước cấp bù lãi suất và phí quản lý theo quy định của pháp luật và Nghị định này; được miễn nộp thuế và các khoản nộp ngân sách nhà nước; được Chính phủ đảm bảo khả năng thanh toán; được áp dụng tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng 0% (không phần trăm) và không phải tham gia bảo hiểm tiền gửi.
(3) Ngân hàng Phát triển được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho vay tái cấp vốn theo quy định của pháp luật; được tham gia thị trường liên ngân hàng, tham gia thị trường mở, tổ chức thanh toán nội bộ, cung cấp các dịch vụ thanh toán, các dịch vụ ngân hàng khác cho khách hàng, thực hiện hoạt động ngoại hối; được tham gia hệ thống thanh toán trong nước và quốc tế theo quy định của pháp luật.
(4) Đối với hoạt động cho vay khác: ngân sách nhà nước không cấp bù lãi suất và phí quản lý; các khoản thu nhập, chi phí và kết quả hoạt động phát sinh được hòa nhập chung với kết quả hoạt động của Ngân hàng Phát triển theo quy định tại Nghị định 46/2021/NĐ-CP.