Đất đứng tên ông bà nội hơn 30 năm chưa chia thừa kế thì hiện nay thuộc về ai?
Nội dung chính
Đất đứng tên ông bà nội hơn 30 năm chưa chia thừa kế thì hiện nay thuộc về ai?
Căn cứ theo Điều 623 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó.
Trường hợp không có người thừa kế đang quản lý di sản thì di sản được giải quyết như sau:
(1) Di sản thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu theo quy định tại Điều 236 của Bộ luật Dân sự 2015;
(2) Di sản thuộc về Nhà nước, nếu không có người chiếm hữu quy định tại điểm a khoản 1 Điều 236 của Bộ luật Dân sự 2015.
Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
Thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
Theo đó, thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản và 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế.
Đồng thời tại Điều 611 Bộ luật Dân sự 2015 quy định thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Trường hợp Tòa án tuyên bố một người là đã chết thì thời điểm mở thừa kế là ngày theo sự xác định của Tòa án tuyên bố.
Như vậy, nếu ông bà nội đã mất hơn 30 năm mà các đồng thừa kế không yêu cầu chia di sản thì quyền sử dụng đất sau khi hết thời hiệu yêu cầu chia di sản được xác định như sau:
(1) Di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó;
(2) Trường hợp không có người thừa kế đang quản lý di sản thì di sản thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu;
(3) Di sản thuộc về Nhà nước, nếu không có người thừa kế đang quản lý di sản, không có người chiếm hữu.

Đất đứng tên ông bà nội hơn 30 năm chưa chia thừa kế thì hiện nay thuộc về ai? (Hình từ Internet)
Khi nào không được thừa kế đất đai?
Căn cứ theo Điều 621 Bộ luật Dân sự 2015 quy định người không được quyền thừa kế đất đai nếu thuộc trong những trường hợp như sau:
(1) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó;
(2) Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản;
(3) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng;
(4) Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc, che giấu di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản.
Lưu ý: Những người nêu trên vẫn được hưởng di sản, nếu người để lại di sản đã biết hành vi của những người đó, nhưng vẫn cho họ hưởng di sản theo di chúc.
(5) Trường hợp người đó không được người lập di chúc cho hưởng di sản (Điều 626 Bộ luật Dân sự 2015)
Tuy nhiên, theo Điều 644 Bộ luật Dân sự 2015 nếu thuộc 02 trường hợp sau mặc dù không có tên trong di chúc vẫn được hưởng phần di sản bằng 2/3 suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật::
- Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
- Con thành niên mà không có khả năng lao động.
(6) Người bị truất quyền hưởng di sản của người thừa kế
(7) Người thừa kế không còn sống vào thời điểm thừa kế (Điều 613 Bộ luật Dân sự 2015)
Trường hợp nào có di chúc mà vẫn phải chia thừa kế đất đai theo pháp luật?
Căn cứ theo Điều 650 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về các trường hợp chia thừa kế theo pháp luật bao gồm:
Điều 650. Những trường hợp thừa kế theo pháp luật
1. Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong trường hợp sau đây:
a) Không có di chúc;
b) Di chúc không hợp pháp;
c) Những người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế;
d) Những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà không có quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.
[...]
Như vậy, trong một số trường hợp dù đã có di chúc, việc chia thừa kế vẫn được thực hiện theo quy định của pháp luật, bao gồm 03 trường hợp sau:
