Con chưa chào đời có được hưởng thừa kế nhà đất hay không?
Nội dung chính
Con chưa chào đời có được hưởng thừa kế nhà đất hay không?
Căn cứ theo quy định tại Điều 613 Bộ luật dân sự 2015:
Điều 613. Người thừa kế
Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Trường hợp người thừa kế theo di chúc không là cá nhân thì phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.
Theo quy định trên, người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết.
Theo đó, nếu thai nhi sinh ra và còn sống được coi là người thừa kế hợp pháp.
Trên đây là nội dung về Con chưa chào đời có được hưởng thừa kế nhà đất hay không?
Con chưa chào đời có được hưởng thừa kế nhà đất hay không? (Hình từ Internet)
Có bắt buộc phải hòa giải tại UBND cấp xã khi tranh chấp thừa kế đất đai ?
Căn cứ theo quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 235 Luật Đất đai 2024:
Điều 235. Hòa giải tranh chấp đất đai
1. Nhà nước khuyến khích các bên tranh chấp đất đai tự hòa giải, hòa giải ở cơ sở theo quy định của pháp luật về hòa giải ở cơ sở, hòa giải theo quy định của pháp luật về hòa giải thương mại hoặc cơ chế hòa giải khác theo quy định của pháp luật.
2. Trước khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai quy định tại Điều 236 của Luật này, các bên tranh chấp phải thực hiện hòa giải tại Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất tranh chấp. Việc hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất tranh chấp được thực hiện như sau:
a) Sau khi nhận được đơn yêu cầu hòa giải tranh chấp đất đai, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm thành lập Hội đồng hòa giải tranh chấp đất đai để thực hiện hòa giải tranh chấp đất đai;
b) Thành phần Hội đồng hòa giải tranh chấp đất đai bao gồm: Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã là Chủ tịch Hội đồng, đại diện Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã, công chức làm công tác địa chính, người sinh sống lâu năm biết rõ về nguồn gốc và quá trình sử dụng đối với thửa đất tranh chấp (nếu có). Tùy từng trường hợp cụ thể, có thể mời đại diện tổ chức, cá nhân khác tham gia Hội đồng hòa giải tranh chấp đất đai;
[...]
Như vậy, trường hợp xảy ra tranh chấp đất đai, Nhà nước khuyến khích các bên tự thương lượng, hòa giải tại cơ sở.
Nếu hòa giải không thành, các bên bắt buộc phải tiến hành thủ tục hòa giải tại UBND cấp xã nơi có đất tranh chấp trước khi khởi kiện ra Tòa án.
Lưu ý:
Tuy nhiên, người dân cần lưu ý rằng tranh chấp thừa kế đất đai (hay còn gọi là tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất) không bắt buộc phải hòa giải tại UBND cấp xã, vì loại tranh chấp này không được xem là tranh chấp đất đai theo quy định pháp luật, mà chỉ là tranh chấp liên quan đến đất đai.
Hiện nay, tranh chấp về thừa kế đất đai xảy ra khá phổ biến, thường là giữa những người thuộc hàng thừa kế với nhau, hoặc giữa người không có quyền thừa kế nhưng cho rằng mình có quyền hưởng một phần di sản.
Chính vì vậy, nhiều người vẫn nhầm lẫn rằng đây là tranh chấp đất đai theo đúng nghĩa pháp lý và gửi đơn yêu cầu hòa giải tại UBND cấp xã – trong khi pháp luật không bắt buộc phải thực hiện bước này đối với tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất.
Căn cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 3 Nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP:
Điều 3. Về chưa có đủ điều kiện khởi kiện theo quy định của pháp luật quy định tại điểm b khoản 1 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015
[...]
2. Đối với tranh chấp ai là người có quyền sử dụng đất mà chưa được hòa giải tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp theo quy định tại Điều 202 Luật đất đai năm 2013 thì được xác định là chưa có đủ điều kiện khởi kiện quy định tại điểm b khoản 1 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
Đối với tranh chấp khác liên quan đến quyền sử dụng đất như: tranh chấp về giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất, tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất, chia tài sản chung của vợ chồng là quyền sử dụng đất,... thì thủ tục hòa giải tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp không phải là điều kiện khởi kiện vụ án.
[...]
Tóm lại, tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất không thuộc nhóm tranh chấp đất đai theo quy định của pháp luật, nên trong trường hợp này, các bên có quyền khởi kiện trực tiếp tại Tòa án nhân dân có thẩm quyền mà không cần thực hiện thủ tục hòa giải tại UBND cấp xã.
Trường hợp nào không được hưởng thừa kế nhà đất?
Căn cứ theo quy định tại Điều 621 Bộ luật Dân sự 2015:
Điều 621. Người không được quyền hưởng di sản
1. Những người sau đây không được quyền hưởng di sản:
a) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó;
b) Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản;
c) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng;
d) Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc, che giấu di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản.
[...]
Theo đó, những trường hợp không được hưởng thừa kế nhà đất bao gồm:
- Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó; - Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản; - Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng; - Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc, che giấu di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản. |
Lưu ý: Người thuộc những trường hợp trên đây vẫn được hưởng thừa kế nhà đất nếu người để lại di sản đã biết hành vi của những người đó, nhưng vẫn cho họ hưởng di sản theo di chúc.