Tải file Dự thảo Luật Đầu tư 2025 (Dự thảo đã thông qua)
Nội dung chính
Tải file Dự thảo Luật Đầu tư 2025 (Dự thảo đã thông qua)
Dự thảo Luật Đầu tư 2025 quy định về hoạt động đầu tư kinh doanh tại Việt Nam và hoạt động đầu tư kinh doanh từ Việt Nam ra nước ngoài.
Dự thảo Luật Đầu tư 2025 áp dụng đối với nhà đầu tư và cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan đến hoạt động đầu tư kinh doanh.
Tải file Dự thảo Luật Đầu tư 2025 (Dự thảo đã thông qua)
Luật Đầu tư 2025 khi nào có hiệu lực thi hành sau khi được thông qua?
Căn cứ theo Điều 51 Dự thảo Luật Đầu tư 2025 có quy định điều khoản thi hành như sau:
Điều 51. Điều khoản thi hành
1. Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 03 năm 2026, trừ quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này.
2. Điều 7 và Danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện quy định tại Phụ lục IV ban hành kèm theo Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2026.
3. Khoản 3 Điều 50 của Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2026.
...
Theo đó, Dự thảo Luật Đầu tư 2025 có hiệu lực từ ngày 01/03/2026, trừ khoản 2 và khoản 3 Điều 51 Dự thảo Luật Đầu tư 2025.
Chính sách về đầu tư kinh doanh theo Dự thảo Luật Đầu tư 2025
Căn cứ theo Điều 5 Dự thảo Luật Đầu tư 2025 quy định chính sách về đầu tư kinh doanh như sau:
1. Nhà đầu tư có quyền thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh trong các ngành, nghề mà Dự thảo Luật Đầu tư 2025 không cấm. Đối với ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện thì nhà đầu tư phải đáp ứng các điều kiện đầu tư kinh doanh theo quy định của pháp luật.
2. Nhà đầu tư được tự quyết định và tự chịu trách nhiệm về hoạt động đầu tư kinh doanh theo quy định của Dự thảo Luật Đầu tư 2025 và quy định khác của pháp luật có liên quan; được tiếp cận, sử dụng các nguồn vốn tín dụng, quỹ hỗ trợ, sử dụng đất đai và tài nguyên khác theo quy định của pháp luật.
3. Nhà đầu tư bị đình chỉ, ngừng, chấm dứt hoạt động đầu tư kinh doanh nếu hoạt động này gây phương hại hoặc có nguy cơ gây phương hại đến quốc phòng, an ninh quốc gia.
4. Nhà nước công nhận và bảo hộ quyền sở hữu về tài sản, vốn đầu tư, thu nhập và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của nhà đầu tư.
5. Nhà nước đối xử bình đẳng giữa các nhà đầu tư; có chính sách khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để nhà đầu tư thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh, phát triển bền vững các ngành kinh tế.
6. Nhà nước tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về đầu tư mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.

Tải file Dự thảo Luật Đầu tư 2025 (Dự thảo đã thông qua) (Hình từ Internet)
Bảo đảm đầu tư kinh doanh trong trường hợp thay đổi pháp luật được quy định như thế nào theo Dự thảo Luật Đầu tư 2025?
Tại Điều 12 Dự thảo Luật Đầu tư 2025 việc bảo đảm đầu tư kinh doanh trong trường hợp thay đổi pháp luật được quy định như sau:
1. Trường hợp văn bản quy phạm pháp luật mới được ban hành quy định ưu đãi đầu tư mới, ưu đãi đầu tư cao hơn thì nhà đầu tư được hưởng ưu đãi đầu tư theo quy định của văn bản pháp luật mới cho thời gian hưởng ưu đãi còn lại của dự án đầu tư, trừ ưu đãi đầu tư đặc biệt đối với dự án đầu tư thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 5 Điều 17 Dự thảo Luật Đầu tư 2025.
2. Trường hợp văn bản quy phạm pháp luật mới được ban hành quy định ưu đãi đầu tư thấp hơn ưu đãi đầu tư mà nhà đầu tư được hưởng trước đó thì nhà đầu tư được tiếp tục áp dụng ưu đãi đầu tư theo quy định trước đó cho thời gian hưởng ưu đãi còn lại của dự án đầu tư.
3. Quy định tại Mục (2) không áp dụng trong trường hợp thay đổi quy định của văn bản quy phạm pháp luật vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng, bảo vệ môi trường.
4. Trường hợp nhà đầu tư không được tiếp tục áp dụng ưu đãi đầu tư theo quy định tại khoản 3 Điều này thì được xem xét, giải quyết bằng một hoặc một số biện pháp sau đây:
- Khấu trừ thiệt hại thực tế của nhà đầu tư vào thu nhập chịu thuế;
- Điều chỉnh mục tiêu hoạt động của dự án đầu tư;
- Hỗ trợ nhà đầu tư khắc phục thiệt hại.
5. Đối với biện pháp bảo đảm đầu tư quy định tại mục (4), nhà đầu tư phải có yêu cầu bằng văn bản trong thời hạn 03 năm kể từ ngày văn bản pháp luật mới có hiệu lực thi hành.
