Mẫu viết bài văn nghị luận so sánh đánh giá hai tác phẩm thơ
Nội dung chính
Mẫu viết bài văn nghị luận so sánh đánh giá hai tác phẩm thơ
(1) Mẫu viết bài văn nghị luận so sánh đánh giá hai tác phẩm thơ Tây Tiến của Quang Dũng và Việt Bắc của Tố Hữu
Trong nền thơ ca cách mạng Việt Nam, "Tây Tiến" của Quang Dũng và "Việt Bắc" của Tố Hữu là hai tác phẩm tiêu biểu, thể hiện vẻ đẹp của người lính và tình yêu quê hương đất nước trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Cả hai bài thơ đều thể hiện tinh thần anh dũng, lạc quan của con người Việt Nam, nhưng lại mang những sắc thái khác nhau trong cách thể hiện cảm xúc và nghệ thuật.
Về nội dung, cả hai bài thơ đều ca ngợi người lính cách mạng. "Tây Tiến" khắc họa chân dung người lính Tây Tiến trên những chặng đường hành quân gian khổ nơi núi rừng Tây Bắc. Họ vừa kiên cường, dũng cảm, vừa mang vẻ đẹp hào hoa, lãng mạn:
"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm"
Hình ảnh người lính trong "Tây Tiến" hiện lên vừa bi tráng, vừa hào hùng, thể hiện sự hy sinh cao cả vì độc lập dân tộc. Trong khi đó, "Việt Bắc" lại tái hiện tình cảm gắn bó sâu nặng giữa người lính với chiến khu và đồng bào nơi đây:
"Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng"
Bài thơ của Tố Hữu không chỉ là lời chia tay đầy lưu luyến giữa người cán bộ kháng chiến với Việt Bắc mà còn là một bản hùng ca về cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc. Nếu như "Tây Tiến" mang màu sắc bi tráng, thì "Việt Bắc" lại thấm đượm cảm xúc trữ tình, sâu lắng.
Về nghệ thuật, hai bài thơ có phong cách khác biệt. "Tây Tiến" mang đậm chất lãng mạn và bi tráng, với những hình ảnh đầy chất thơ nhưng cũng không kém phần dữ dội:
"Heo hút cồn mây súng ngửi trời"
Cách diễn đạt độc đáo, kết hợp giữa hiện thực khắc nghiệt và chất thơ bay bổng đã tạo nên một bức tranh đầy màu sắc về cuộc chiến đấu nơi miền biên viễn. Trong khi đó, "Việt Bắc" lại sử dụng thể thơ lục bát truyền thống, mang âm hưởng dân ca nhẹ nhàng, sâu lắng. Cách đối đáp "mình - ta" gợi nhớ đến những câu ca dao xưa, khiến bài thơ mang tính gần gũi, thân quen.
Dù có những điểm khác biệt, nhưng cả "Tây Tiến" và "Việt Bắc" đều là những tác phẩm xuất sắc, thể hiện tình yêu nước, tinh thần lạc quan và sự gắn bó của con người với quê hương, cách mạng. Hai bài thơ tuy khác nhau về phong cách và giọng điệu nhưng đều góp phần làm nên vẻ đẹp của nền thơ ca kháng chiến Việt Nam.
(2) Mẫu viết bài văn nghị luận so sánh đánh giá hai tác phẩm thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" của Hàn Mặc Tử và "Tràng giang" của Huy Cận
Thơ Mới (1930-1945) là một giai đoạn rực rỡ của thơ ca Việt Nam, trong đó Hàn Mặc Tử và Huy Cận là hai nhà thơ tiêu biểu. Nếu như "Đây thôn Vĩ Dạ" của Hàn Mặc Tử là bức tranh về vẻ đẹp trữ tình của xứ Huế kết hợp với nỗi buồn xa cách, thì "Tràng giang" của Huy Cận lại là một bản nhạc buồn về kiếp người cô đơn, nhỏ bé giữa thiên nhiên rộng lớn.
Về nội dung, cả hai bài thơ đều thể hiện tâm trạng u hoài và nỗi buồn của con người. "Đây thôn Vĩ Dạ" mở đầu bằng một bức tranh thiên nhiên đầy sức sống:
"Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên"
Không gian Huế hiện lên trong trẻo, tinh khôi, nhưng ẩn sau vẻ đẹp ấy là nỗi buồn man mác của một tâm hồn khao khát yêu thương. Hàn Mặc Tử sáng tác bài thơ này trong hoàn cảnh bệnh tật, xa cách với cuộc đời, khiến từng câu chữ đều mang theo một nỗi niềm tiếc nuối.
Ngược lại, "Tràng giang" của Huy Cận lại là nỗi cô đơn dàn trải trong không gian sông nước mênh mông:
"Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song"
Không có hình ảnh con người, bài thơ chỉ có thiên nhiên rộng lớn và những dòng sông trôi lặng lẽ, khiến tâm trạng con người càng trở nên lạc lõng, cô đơn. Trong khi Hàn Mặc Tử khao khát sự kết nối với cuộc đời, thì Huy Cận lại cảm nhận sự nhỏ bé, lạc lõng giữa vũ trụ vô tận.
Về nghệ thuật, cả hai bài thơ đều giàu hình ảnh và nhạc điệu. "Đây thôn Vĩ Dạ" sử dụng những hình ảnh mang đậm màu sắc lãng mạn, kết hợp giữa thực và ảo, giữa ánh sáng và bóng tối, tạo nên một bức tranh vừa đẹp đẽ, vừa huyền bí. Trong khi đó, "Tràng giang" lại có ngôn ngữ cô đọng, nhịp thơ chậm rãi, như những con sóng trôi dài, diễn tả cảm giác hoài niệm và cô đơn của con người trước thiên nhiên bao la.
Dù khác nhau về cảm hứng sáng tác, nhưng cả hai bài thơ đều thể hiện những nỗi niềm sâu sắc về thân phận con người và thiên nhiên, đóng góp vào vẻ đẹp đa dạng của phong trào Thơ Mới.
(3) Mẫu viết bài văn nghị luận so sánh đánh giá hai tác phẩm thơ "Sóng" của Xuân Quỳnh và "Tự tình" của Hồ Xuân Hương
Thơ ca Việt Nam có nhiều tác phẩm viết về tình yêu, nhưng mỗi thời kỳ lại có những cách thể hiện khác nhau. "Sóng" của Xuân Quỳnh là bài thơ hiện đại đầy khao khát yêu thương, trong khi "Tự tình" của Hồ Xuân Hương là tiếng lòng đau đáu của người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
Về nội dung, cả hai bài thơ đều thể hiện tâm trạng của người phụ nữ trong tình yêu. "Sóng" là tiếng lòng của một trái tim đang rạo rực, say đắm trong tình yêu:
"Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu?"
Những con sóng vừa dữ dội, vừa dịu dàng tượng trưng cho trái tim yêu mãnh liệt của người phụ nữ. Xuân Quỳnh thể hiện một tình yêu chủ động, nồng nhiệt và khát khao được gắn bó mãi mãi.
Trong khi đó, "Tự tình" lại mang nỗi buồn thầm kín của một người phụ nữ lỡ dở duyên phận:
"Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non"
Hồ Xuân Hương viết về nỗi cô đơn của người phụ nữ trong xã hội phong kiến, nơi họ không được làm chủ tình yêu và số phận của mình. Nỗi buồn trong "Tự tình" không chỉ là nỗi buồn cá nhân mà còn là nỗi đau chung của những người phụ nữ phải chịu cảnh éo le.
Về nghệ thuật, cả hai bài thơ đều có hình ảnh giàu sức gợi. "Sóng" mang nhịp điệu dào dạt, gợi liên tưởng đến những con sóng biển, trong khi "Tự tình" sử dụng hình ảnh thiên nhiên để diễn tả tâm trạng con người. Nếu Xuân Quỳnh thể hiện sự chủ động, mạnh mẽ, thì Hồ Xuân Hương lại thể hiện sự phản kháng trong khuôn khổ ràng buộc của xã hội.
Dù viết ở hai thời kỳ khác nhau, nhưng "Sóng" và "Tự tình" đều là tiếng nói tâm hồn đầy cảm xúc của những người phụ nữ trong tình yêu.
Mẫu viết bài văn nghị luận so sánh đánh giá hai tác phẩm thơ (Hình từ Internet)
Có các hình thức đánh giá kết quả rèn luyện và học tập của học sinh trung học phổ thông nào?
Điều 5 Thông tư 22/2021/TT-BGDĐT hình thức đánh giá kết quả rèn luyện và học tập quy định như sau:
(1) Đánh giá bằng nhận xét
- Giáo viên dùng hình thức nói hoặc viết để nhận xét việc thực hiện nhiệm vụ rèn luyện và học tập của học sinh; nhận xét sự tiến bộ, ưu điểm nổi bật, hạn chế chủ yếu của học sinh trong quá trình rèn luyện và học tập; đánh giá kết quả rèn luyện và học tập của học sinh.
- Học sinh dùng hình thức nói hoặc viết để tự nhận xét về việc thực hiện nhiệm vụ rèn luyện và học tập, sự tiến bộ, ưu điểm nổi bật, hạn chế chủ yếu của bản thân.
- Cha mẹ học sinh, cơ quan, tổ chức, cá nhân có tham gia vào quá trình giáo dục học sinh cung cấp thông tin phản hồi về việc thực hiện nhiệm vụ rèn luyện và học tập của học sinh.
- Đánh giá bằng nhận xét kết quả rèn luyện và học tập của học sinh được sử dụng trong đánh giá thường xuyên, đánh giá định kì thông qua các hình thức kiểm tra, đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ rèn luyện và học tập của học sinh phù hợp với đặc thù của môn học.
(2) Đánh giá bằng điểm số
- Giáo viên dùng điểm số để đánh giá kết quả rèn luyện và học tập của học sinh.
- Đánh giá bằng điểm số được sử dụng trong đánh giá thường xuyên, đánh giá định kì thông qua các hình thức kiểm tra, đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ rèn luyện và học tập của học sinh phù hợp với đặc thù của môn học.
(3) Hình thức đánh giá đối với các môn học
- Đánh giá bằng nhận xét đối với các môn học: Giáo dục thể chất, Nghệ thuật, Âm nhạc, Mĩ thuật, Nội dung giáo dục của địa phương, Hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp; kết quả học tập theo môn học được đánh giá bằng nhận xét theo 01 (một) trong 02 (hai) mức: Đạt, Chưa đạt.
- Đánh giá bằng nhận xét kết hợp đánh giá bằng điểm số đối với các môn học trong Chương trình giáo dục phổ thông, trừ các môn học quy định tại điểm a khoản này; kết quả học tập theo môn học được đánh giá bằng điểm số theo thang điểm 10, nếu sử dụng thang điểm khác thì phải quy đổi về thang điểm 10. Điểm đánh giá là số nguyên hoặc số thập phân được lấy đến chữ số thập phân thứ nhất sau khi làm tròn số.
Căn cứ quy định này, có 03 hình thức đánh giá kết quả học tập và rèn luyện của học sinh trung học phổ thông như trên.