Thông tư liên bộ 93-TT/LB năm 1970 hướng dẫn thi hành điều lệ tạm thời về chế độ thu tài chính và chế độ phân phối lợi nhuận xí nghiệp quốc doanh trong ngành nội thương và quyết định về khoản thu của ngân sách địa phương về giao nộp nông sản, thực phẩm do Bộ Tài chính - Bộ Nội thương - Ngân hàng Nhà nước ban hành

Số hiệu 93-TT/LB
Ngày ban hành 16/04/1970
Ngày có hiệu lực 01/05/1970
Loại văn bản Thông tư liên tịch
Cơ quan ban hành Bộ Nội thương,Bộ Tài chính,Ngân hàng Nhà nước
Người ký Nguyễn Sỹ Đồng,Trịnh Văn Bính,Bùi Bảo Vân
Lĩnh vực Doanh nghiệp,Thương mại,Tài chính nhà nước

BỘ TÀI CHÍNH - BỘ NỘI THƯƠNG -NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
*******

VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

*******

Số: 93-TT/LB

Hà Nội, ngày 16 tháng 4 năm 1970

 

THÔNG TƯ LIÊN BỘ

HƯỚNG DẪN VIỆC THI HÀNH ĐIỀU LỆ TẠM THỜI VỀ CHẾ ĐỘ THU TÀI CHÍNH VÀ CHẾ ĐỘ PHÂN PHỐI LỢI NHUẬN XÍ NGHIỆP QUỐC DOANH TRONG NGÀNH NỘI THƯƠNG VÀ QUYẾT ĐỊNH VỀ KHOẢN THU CỦA NGÂN SÁCH ĐỊA PHƯƠNG VỀ GIAO NỘP NÔNG SẢN, THỰC PHẨM

 

Ngày 04-12-1969, Hội đồng Chính phủ đã ra nghị định số 235-CP ban hành điều lệ tạm thời về chế độ thu tài chính và chế độ phân phối lợi nhuận xí nghiệp quốc doanh trong ngành nội thương, và quyết định số 258-CP ngày 24-12-1969 về khoản thu của ngân sách địa phương về giao nộp nông sản thực phẩm, cho thi hành kể từ ngày 01-01-1970. Căn cứ vào những quy định trong các văn kiện trên của Hội đồng Chính phủ, Liên bộ Tài chính - Nội thương – Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn cụ thể việc thi hành như sau:

Phần 1:

1. Từ trước đến nay, ngân sách Nhà nước huy động số thu nhập thuần túy xã hội tạo ra ở các xí nghiệp sản xuất công nghiệp, ở cả hai khâu: sản xuất và lưu thông. Từ nay, để tập trung thu ngay ở khâu sản xuất phần lớn số thu nhập thuần túy xã hội nói trên, Nhà nước bố trí lại hệ thống giá bán buôn công nghiệp và giá bán buôn thương nghiệp. Việc bố trí lại hệ thống giá nhằm dồn vào giá bán buôn công nghiệp số thu về thuế doanh nghiệp và phần lớn số lợi nhuận thương nghiệp trước đây thu ở các xí nghiệp thương nghiệp cấp I và cấp II (bán buôn, bán lẻ); vì vậy, xí nghiệp thương nghiệp lưu thông thuần tuý không phải nộp thuế doanh nghiệp nữa, đồng thời xí nghiệp này, khi kinh doanh hàng của xí nghiệp sản xuất công nghiệp (trung ương hoặc địa phương), chỉ được Nhà nước dành cho một khoản chiết khấu thương nghiệp định mức đủ bảo đảm trang trải phí lưu thông (định mức), lợi nhuận xí nghiệp thương nghiệp (định mức) và hoa hồng trả cho hợp tác xã mua bán xã (định mức).

Căn cứ điều 4 của điều lệ tạm thời thì “xí nghiệp thương nghiệp kinh doanh hàng công nghiệp mua hàng của xí nghiệp công nghiệp trung ương hoặc địa phương theo giá bán buôn công nghiệp. Giá bán buôn công nghiệp là giá bán lẻ trừ (-) chiết khấu thương nghiệp”.

a) Giá bán lẻ là giá bán cho người tiêu dùng, do Nhà nước (hoặc cơ quan do Nhà nước ủy quyền) quy định: đối với hàng của xí nghiệp công nghiệp (hoặc gia công) trung ương, thì lấy giá bán lẻ hệ thống I trung ương; đối với hàng của xí nghiệp công nghiệp (hoặc gia công) địa phương, thì lấy giá bán lẻ hệ thống I địa phương sản xuất (thị trường chính của tỉnh, thành phố).

b) Chiết khấu thương nghiệp được định mức chung cho toàn ngành thương nghiệp, phân bố cho ngành hàng và nhóm hàng. Chiết khấu thương nghiệp toàn ngành gồm: chiết khấu thương nghiệp cấp I, chiết khấu thương nghiệp cấp II (bán buôn, bán lẻ). Chiết khấu thương nghiệp của mỗi cấp gồm: phí lưu thông thương nghiệp định mức, lợi nhuận định mức của xí nghiệp thương nghiệp, và hoa hồng dành cho hợp tác xã mua bán xã đại lý bán hàng công nghiệp.

- Đối với hàng của xí nghiệp công nghiệp (hoặc gia công) trung ương, thì lấy chiết khấu thương nghiệp toàn ngành.

- Đối với hàng của xí nghiệp công nghiệp (hoặc gia công) địa phương, nếu tiêu thụ ngay tại địa phương sản xuất thì lấy chiết khấu thương nghiệp cấp II địa phương, nếu bán cho xí nghiệp thương nghiệp cấp I hoặc cho địa phương khác mà là loại hàng do trung ương thống nhất phân phối và thống nhất quản lý giá thì lấy chiết khấu thương nghiệp toàn ngành (trong trường hợp này nếu phát sinh lỗ ở khâu sản xuất thì Ủy ban hành chính tỉnh, thành phố có nhiệm vụ báo cáo để Bộ Tài chính xét, giải quyết); nếu là loại hàng không do trung ương thống nhất phân phối và thống nhất quản lý giá thì Ủy ban hành chính tỉnh, thành phố sản xuất quy định giá bán buôn công nghiệp và hai bên (bên mua và bên bán) giao dịch với nhau giá cả thoả thuận.  

2. Đối với xí nghiệp thương nghiệp kinh doanh hàng công nghiệp nhập khẩu thì thi hành như thông tư số 70-TC/NT ngày 23-3-1970 của Bộ Tài chính.

3. Đối với vật tư kỹ thuật, tư liệu sản xuất, xí nghiệp thương nghiệp kinh doanh được mua theo giá bán buôn vật tư trừ (-) chiết khấu thương nghiệp, và bán theo giá thống nhất của Nhà nước (giá bán buôn vật tư), theo quyết định số 60-TTg ngày 28-6-1969 của Thủ tướng Chính phủ.

Một số vật tư kỹ thuật, tư liệu sản xuất vừa bán theo giá cung cấp cho xí nghiệp, công trường, cơ quan, bệnh viện, trường học… vừa bán theo giá bán lẻ cho người tiêu dùng (vật liệu kiến thiết, dụng cụ đồ nghề, đồ điện … theo danh mục đính kèm thông tư này), xí nghiệp thương nghiệp lấy giá cung cấp làm cơ sở để tính giá mua, giá bán và trị giá hàng tồn kho, và khi bán theo giá bán lẻ thì phải nộp vào ngân sách khoản chênh lệch giữa giá bán lẻ và giá bán cung cấp (xí nghiệp thương nghiệp cấp I nộp vào ngân sách trung ương, xí nghiệp thương nghiệp cấp II nộp vào ngân sách  địa phương).

4. Nói chung đối với những hàng công nghiệp tiêu dùng bán theo giá bán lẻ, xí nghiệp thương nghiệp lấy giá bản lẻ làm cơ sở tính giá mua, giá bán và trị giá hàng tồn kho; trường hợp một số cá biệt mặt hàng được bán theo giá cung cấp như muối, dầu hỏa, sử dụng cho các nhu cầu do Nhà nước quy định thì xí nghiệp thương nghiệp được ngân sách cấp bù khoản chệnh lệch giữa giá bán lẻ và giá bán cung cấp (ngân sách trung ương  cấp bù cho xí nghiệp thương nghiệp cấp I; ngân sách địa phương cấp bù cho xí nghiệp thương nghiệp cấp II).

5. Riêng đối với một số mặt hàng công nghiệp tiêu dùng khác như xe đạp, phụ tùng xe đạp, mì chính nhập khẩu,… mà Nhà nước có chủ trương bán hai giá: giá bán cung cấp và giá bán lẻ tự do, thì xí nghiệp thương nghiệp lấy giá bán cung cấp làm cơ sở để tính giá mua, giá bán và trị giá hàng tồn kho, và:

a) Xí nghiệp thương nghiệp cấp I thanh toán với xí nghiệp công nghiệp (hay xí nghiệp ngoại thương) theo giá cung cấp trừ (-) chiết khấu thương nghiệp toàn ngành; xí nghiệp thương nghiệp cấp II thanh toán với xí nghiệp thương nghiệp cấp I theo giá cung cấp trừ (-) chiết khấu thương nghiệp cấp II (bán buôn và bán lẻ).

b) Đối với xe đạp bán theo giá bán lẻ tự do thì khoản chênh lệch giữa giá cung cấp và giá bán lẻ tự do phải nộp vào ngân sách lúc bán hàng ra.

Hàng năm, sau khi Nhà nước duyệt chỉ tiêu bán tổng số xe đạp và phụ tùng, trong đó có chỉ tiêu bán theo giá cung cấp (chỉ tiêu kế hoạch năm, chia theo quý). Bộ Nội thương thông báo cho Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước, Ủy ban hành chính tỉnh, thành phố và về sau mỗi khi có sự thay đổi chỉ tiêu bán cũng kịp thời thông báo cho các cơ quan nói trên.

Kể từ 01-01-1970 hàng tháng xí nghiệp thương nghiệp cấp I gửi cho Cục thu quốc doanh thuộc Bộ Tài chính bản kê số xe đạp và phụ tùng xe đạp bán cho cấp II (phân tích riêng số lượng bán theo giá cung cấp và bán theo giá bán lẻ tự do).

Các xí nghiệp thương nghiệp phụ trách bán lẻ xe đạp và phụ tùng phải tổ chức chu đáo việc ghi chép sổ sách, chứng từ; lập bảng kê số tiền chênh lệch về bán hai giá và nộp cho ngân sách trung ương 50% (riêng thành phố Hà Nội và Hải Phòng 75%), ngân sách địa phương 50% (riêng thành phố Hà Nội, Hải Phòng 25%). Ủy ban hành chính tỉnh, thành phố quy định cụ thể lịch nộp ngân sách thích hợp.

Đối với các mặt hàng khác mà Nhà nước có chủ trương bán hai giá như xe đạp và phụ tùng xe đạp, cũng thực hiện những quy định trên đây.

6. Hàng công nghiệp thuộc loại hàng tiêu dùng, nếu xí nghiệp thương nghiệp bán ra cho xí nghiệp khác mua về làm nguyên liệu sản xuất (mua đường về sản xuất bánh kẹo), thì vận dụng như điều 7, chương II của điều lệ tạm thời để mà ấn định giá cả mua, bán.

Các xí nghiệp ăn uống, sửa chữa, phục vụ, (hạch toán kinh tế độc lập) mua hàng thực phẩm (bia chai, nước chanh, rượu, thịt,…) để chế biến và để bán cho khách hàng, mua phụ tùng đồng hồ, bút máy, xe đạp,... để dùng vào việc sửa chữa, thay thế cho khách hàng đều theo giá bán lẻ tại địa phương trừ (-) chiết khấu thương nghiệp bán lẻ.

7. Xí nghiệp thương nghiệp thu mua hàng công nghiệp do các hợp tác xã tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp sản xuất khi nhập hàng vào kho, cũng áp dụng cách tính giá mua như đối với hàng công nghiệp mua của các xí nghiệp sản xuất. Số tiền chênh lệch giữa giá thanh toán với hợp tác xã và giá nhập kho của xí nghiệp, nếu có chênh lệch thừa thì xí nghiệp nộp vào ngân sách; nếu có chênh lệch thiếu thì xí nghiệp được ngân sách cấp bù. Xí nghiệp thương nghiệp thuộc cấp nào thì ngân sách cấp đó giải quyết.

8. Xí nghiệp thương nghiệp kinh doanh hàng công nghiệp lấy từ kho dự trữ vật tư Nhà nước ra, phải thanh toán với cơ quan dự trữ vật tư Nhà nước theo giá bán buôn công nghiệp.

9. Giá bán buôn trong hệ thống thương nghiệp:

- Giá bán buôn thương nghiệp cấp I là giá bán lẻ ở thị trường chính của tỉnh, thành phố mua hàng trừ (-) chiết khấu thương nghiệp cấp II (bán buôn và bán lẻ);

[...]