BỘ
TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM – BỘ NỘI THƯƠNG
*******
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
*******
|
Số
: 27-LB
|
Hà
Nội, ngày 10 tháng 12 năm 1964
|
THÔNG TƯ LIÊN BỘ
GIẢI THÍCH VÀ BỔ SUNG THÔNG TƯ LIÊN BỘ SỐ 21-LB-NH-NT-TC
NGÀY 12-12-1962 VỀ VIỆC GIẢI QUYẾT MỘT SỐ VẤN ĐỀ LIÊN QUAN GIỮA CÔNG TÁC CHO
VAY THƯƠNG NGHIỆP CỦA NGÂN HÀNG VỚI NHIỆM VỤ NỘP NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VÀ BẢO ĐẢM
VỐN KINH DOANH CỦA CÁC ĐƠN VỊ MẬU DỊCH QUỐC DOANH
Ngày 12-12-1962, liên Bộ
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam – Tài chính - Nội thương đã ban hành Thông tư liên
Bộ số 21-LB-NH-NT-TC quy định nguyên tắc giải quyết một số vấn đề liên quan giữa
công tác cho vay thương nghiệp của Ngân hàng với nhiệm vụ nộp ngân sách Nhà nước
và việc bảo đảm vốn kinh doanh của các đơn vị mậu dịch quốc doanh.
Sau một thời
gian thi hành ở những địa phương mà các đơn vị cơ sở ba ngành có sự phối hợp chặt
chẽ và chấp hành nghiêm chỉnh dưới sự lãnh đạo của Ủy ban hành chính các cấp,
Thông tư liên Bộ này đã có tác dụng đưa công tác quản lý kinh doanh, quản lý
tài vụ của ngành nội thương đi dần vào nề nếp, công tác cho vay thương nghiệp của
Ngân hàng Nhà nước, công tác cấp vốn và thu tích lũy ở khâu thương nghiệp của
tài chính cũng đã bước đầu phát huy được tác dụng tăng cường giám đốc thúc đẩy
các hoạt động của thương nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho ngành nội thương
hoàn thành kế hoạch Nhà nước năm 1963.
Tuy nhiên cho
đến nay một số quy định trong Thông tư liên Bộ số 21, ở một số địa phương chưa
thi hành đầy đủ như:
- Vấn đề
trích phí, thuế, lãi: Hầu hết các đơn vị nội thương chưa thực hiện việc nộp
thuế và lãi theo thực tế kinh doanh, mà vẫn nộp theo kế hoạch. Cuối tháng, quyết
toán chậm, không điều chỉnh số nộp kịp thời theo thực tế nên đã xảy ra tình trạng
nơi nộp thừa, nơi nộp thiếu thuế và lãi cho ngân sách. Một số đơn vị chưa thực
hiện việc trích nộp thuế và lãi một tháng nhiều lần; sau mỗi lần trích tỷ lệ lại
gộp từ khoản cho vay đặc biệt sang tài khoản tiền gửi thanh toán, một số đơn vị
nội thương không trích nộp thuế và lãi vào ngân sách ngay, còn chiếm dụng làm vốn
kinh doanh.
- Về nộp
khoản chênh lệch gia công: Nói chung là chậm, thậm chí có nơi sau một quý
lên xong quyết toán mới nộp.
- Về nộp
và bù các khoản chênh lệch tăng giảm giá làm không kịp thời.
Mặt khác, năm 1963 công
tác cải tiến quản lý kinh doanh và tài vụ kế toán trong ngành nội thương bước đầu
được thực hiện nên có một số vấn đề có liên quan đến công tác của ba ngành
nhưng chưa được quy định trong Thông tư liên Bộ số 21 như:
- Vấn đề giải
quyết các trường hợp tăng giảm giá.
- Vấn đề
chênh lệch giá cả khu vực, chênh lệch giữa giá chỉ đạo thu mua và giá thu mua
thực tế;
- Về cấp vốn
và thu hồi vốn hàng hóa ứ đọng;
- Vấn đề giải
quyết tài sản thừa thiếu và nợ nần dây dưa;
- Thu lãi do
giảm giá gia công và tiết kiệm nguyên vật liệu gia công.
Vì vậy liên Bộ
thấy cần phải giải thích thêm những điểm đã quy định trong Thông tư liên Bộ số
21 và bổ sung những điểm mới phát sinh trong năm 1963 – 1964 chưa được quy định
trong Thông tư số 21 để các địa phương, các ngành thống nhất thi hành.
A. VẤN ĐỀ
TRÍCH PHÍ, THUẾ, LÃI BÁN HÀNG, THUẾ, LÃI ĂN UỐNG PHỤC VỤ, THUẾ, LÃI KINH DOANH
NGHIỆP VỤ KHÁC
(sản xuất chăn nuôi…)
Trước hết, cần
phải xác định và nhắc lại nguyên tắc thu nộp cho ngân sách Nhà nước là thu nộp
theo thực tế, kết quả các hoạt động kinh doanh và sản xuất của các xí nghiệp
thương nghiệp quốc doanh. Biện pháp thu nộp như vậy là đúng đắn nhất, không những
có tác dụng đảm bảo việc thu nộp cho ngân sách khớp với kết quả thực tế kinh
doanh của các đơn vị nội thương, tránh hiện tượng nộp thiếu hoặc nộp thừa mà
còn có tác dụng tốt trong việc tăng cường giám đốc bằng đồng tiền các hoạt động
thương nghiệp, thúc đẩy các đơn vị nội thương phải nâng cao trình độ hạch toán
kinh tế, phải hạch toán chính xác và kịp thời các số liệu kế toán phù hợp với
tình hình thực hiện hàng tháng, hàng quý và hàng năm.
Ở nhiều địa
phương trong cả ba ngành Tài chính – Ngân hàng – Nội thương còn nhiều cán bộ
chưa quan niệm rõ như vậy nên đã coi việc thu nộp theo kế hoạch là dĩ nhiên và
đã mất nhiều thì giờ tính toán và tranh chấp nhau về các số liệu kế hoạch mà ít
chú trọng tìm mọi biện pháp để lập các bản cân đối và quyết toán cho kịp thời,
chính xác, trên cơ sở đó có điều kiện để thu nộp theo thực tế, kiểm tra công việc
quản lý kinh doanh thương nghiệp được kịp thời và chính xác.
Liên Bộ xác định
việc nộp lợi nhuận theo kế hoạch chỉ là biện pháp để đảm bảo việc thu nộp kịp
thời cho ngân sách trong khi chờ đợi cuối tháng phải thu theo thực tế. Trong
tháng vẫn tiến hành nộp theo kế hoạch và các đơn vị nội thương phải phấn đấu đảm
bảo quyết toán hàng tháng, quý đúng thời hạn quy định, đảm bảo chính xác các số
liệu kế toán để có căn cứ nộp theo thực tế. Các ngành tài chính và ngân hàng phải
thúc đẩy và tạo mọi điều kiện giúp các đơn vị nội thương lập được quyết toán
đúng thời hạn, chính xác, kiểm tra số liệu kế toán, phân tích tình hình kinh tế
và điều chỉnh thu nộp ngân sách theo thực tế cho kịp thời.
- Cơ quan tài
chính phải thoái thu bù lỗ kịp thời cho đơn vị nội thương nếu xét đơn vị đó nộp
quá hoặc có lỗ thực tế. Nếu đơn vị nội thương nộp còn thiếu do Ngân hàng cho
trích chưa đủ số mà đơn vị được trích thì Ngân hàng cho trích thêm số còn thiếu
đó để nộp lãi và thuế cho ngân sách. Trường hợp Ngân hàng đã cho trích đủ rồi
nhưng đơn vị nội thương không nộp đủ cho ngân sách, lại đem sử dụng vào việc
khác thì các đơn vị nội thương phải trích phí trong tài khoản tiền gửi thanh
toán để nộp thuế và lãi cho ngân sách. Nếu tài khoản tiền gửi thanh toán không
còn thì kỳ trích sau Tài chính yêu cầu Ngân hàng trích đủ số lợi nhuận, thuế
còn thiếu vào lãi gộp chuyển nộp cho ngân sách.
- Cơ quan
ngân hàng phải thúc đẩy việc thanh toán tiền bán hàng nhanh chóng giữa các đơn
vị bên mua và bên bán. Cụ thể là:
Ngân hàng bên
mua khi nhận chứng từ hóa đơn của Ngân hàng bên bán gửi đến (xét đúng các điều
khoản quy định của hợp đồng kinh tế mua bán hàng và chế độ thanh toán của Nhà
nước ban hành) dù hàng còn đang đi trên đường chưa nhập kho, Ngân hàng vẫn cho
đơn vị mua vay theo giấy đòi nợ để trả cho đơn vị bán, nhận được tiền đơn vị
bán phải nộp đầy đủ thuế, lợi nhuận vào ngân sách Nhà nước.
Trường hợp
Ngân hàng từ chối không cho vay, thì Ngân hàng phải kịp thời giải thích cho đơn
vị nội thương và cơ quan tài chính địa phương rõ lý do. Nếu ba cơ quan không thống
nhất với những lý do của Ngân hàng giải thích mà còn không bàn bạc tự giải quyết
được thì phải báo cáo lên cho Bộ Nội thương, Ngân hàng trung ương và Bộ Tài
chính giải quyết.
I. THU NỘP THEO KẾ HOẠCH
Các kế hoạch
tài vụ của ngành nội thương phải đảm bảo số thu nộp cho ngân sách có căn cứ
tương đối chính xác, kế hoạch tài vụ cũng như tỷ lệ gộp (phí, thuế, lãi) phải
phân chia kế hoạch năm ra từng quý và kế hoạch quý ra từng tháng. Sau khi được
các Sở, Ty Thương nghiệp hoặc Bộ Nội thương duyệt, có các ngành Ngân hàng và
Tài chính tham gia ý kiến, thì hàng tháng, quý, các đơn vị lấy tỷ lệ đó nhân với
tiền bán hàng đã gộp vào tài khoản đặc biệt của Ngân hàng để trích phí, thuế và
lãi theo kế hoạch (nếu khi cần thiết phải điều chỉnh tỷ lệ gộp, thì phải lấy tỷ
lệ điều chỉnh).
1. Cách
tính tỷ lệ phí, thuế, lãi bán hàng.
a) Phí thuế ở
đây là phí, thuế dùng để tính lỗ lãi. Vì vậy nội dung phí thuế như sau:
Phí
tính lỗ lãi
|
=
|
Phí
phân bổ hàng tồn kho đầu kỳ
|
+
|
Phí
phát sinh trong kỳ
|
-
|
Phần
phân bổ hàng tồn kho cuối kỳ
|
b) Thuế doanh
nghiệp tính 2,5% trên doanh số bán buôn ngoài hệ thống nội thương và 2,5% trên
doanh số bán lẻ (trừ doanh số đã tính thuế sát sinh và các mặt hàng đã thu quốc
doanh như vải, diêm, thuốc lá, đường, v.v... )
Hiện nay các
xí nghiệp bán lẻ huyện và thị xã đang nộp thay thuế doanh nghiệp cho các hợp
tác xã và hợp tác xã tiểu thương nên khi các công ty cấp II giao hàng cho xí
nghiệp bán lẻ huyện và thị xã, phải tính đủ các khoản thuế thu doanh nghiệp của
bản thân các xí nghiệp bán lẻ, thuế nộp thay cho hợp tác xã mua bán và hợp tác
xã tiểu thương trong chiết khấu để xí nghiệp bán lẻ có đủ thuế nộp cho Phòng
Tài chính huyện.
- Thuế sát
sinh trước đây đã hoạch toán vào khâu thuế để tính tỷ lệ gộp, nay hạch toán vào
giá thịt xô, các đơn vị thương nghiệp nộp ngay sau khi giết thịt. Ngân hàng sẽ
cho vay theo giá thịt xô có thuế sát sinh. Vì vậy, trong tỷ lệ thuế tính kỳ này
không có thuế sát sinh.
- Thuế hàng
hóa của những loại hàng chịu thuế hàng hóa do xí nghiệp sản xuất phụ thuộc của
ngành thương nghiệp tự sản xuất thì hạch toán vào giá chỉ đạo nhập kho, Ngân
hàng cho vay theo giá chỉ đạo nhập kho (đã có thuế hàng hóa) sau khi được Ngân
hàng cho vay, các xí nghiệp nội thương phải trích nộp ngay số thuế hàng hóa đó
vào ngân sách.
c) Lãi ở đây
là lãi bán hàng, vì vậy tỷ lệ lãi mà Ngân hàng cho trích chỉ mới là lãi
bán hàng. Còn các khoản lãi khác như: lãi sản xuất gia công chế biến, lãi chăn
nuôi, lãi ăn uống phục vụ khách sạn, lãi kinh doanh nghiệp vụ khác, lãi ngoài
doanh nghiệp và chênh lệch giá khu vực, sẽ tùy theo tính chất cụ thể của mỗi loại
mà hạch toán và trích nộp cho thích hợp. Các khoản lãi này sẽ giải thích rõ ở
phần sau.
2. Doanh số
để tính tỷ lệ phí, thuế, lãi kế hoạch.
- Doanh số của
cấp I nội thương là số tiền bán hàng cho cấp II, bán hàng cho các cơ quan, xí
nghiệp, công trường và bán hàng cho xuất khẩu v.v...
Doanh
số bán cho cấp II tính theo công thức:
Doanh
số bán cho cấp II
|
=
|
Tổng
trị giá bán ra theo giá bán lẻ của đơn vị cấp II mua hàng
|
-
|
Chiết
khấu của bản thân công ty cấp II
|
+
|
Chiết
khấu cho bản thân xí nghiệp bán lẻ
|
+
|
Hoa
hồng và thuế doanh thu cho hợp tác xã mua bán xã và tổ hợp tác xã tiểu thương
|
- Doanh số của
công ty bán buôn cấp II là số tiền bán hàng cho xí nghiệp bán lẻ, bán hàng cho
cơ quan, công trường, xí nghiệp, bán hàng cho các Công ty bán buôn cấp II các tỉnh
khác, bán hàng cho xuất khẩu…
Doanh số bán
hàng cho xí nghiệp bán lẻ tính theo công thức:
Doanh
số bán cho xí nghiệp bán lẻ
|
=
|
Tổng
trị giá bán ra theo giá bán lẻ của xí nghiệp bán lẻ mua hàng
|
-
|
Chiết
khấu của bản thân xí nghiệp bán lẻ
|
+
|
Hoa
hồng và thuế doanh thu cho hợp tác xã mua bán xã và tổ hợp tác xã tiểu thương
|
- Doanh số của
xí nghiệp bán lẻ là số tiền bán hàng trực tiếp cho nhân dân, tiền bán hàng cho
các hợp tác xã mua bán xã và tổ hợp tác xã tiểu thương.
Doanh số bán
hàng cho hợp tác xã mua bán xã và tổ hợp tác xã tiểu thương tính theo công thức:
Doanh
số bán cho hợp tác xã mua bán xã và tổ hợp tác xã tiểu thương
|
=
|
Tổng
trị giá bán ra cho hợp tác xã mua bán xã và tổ hợp tác xã tiểu thương theo
giá lẻ
|
-
|
Hoa
hồng và thuế cho hợp tác xã mua bán xã và tổ hợp tác xã tiểu thương
|
Trên đây là
công thức tính doanh số bán cho hợp tác xã mua bán xã, tổ hợp tác tiểu thương,
nhưng khi tính số tiền thực thu về thì xí nghiệp bán lẻ chỉ trừ cho hợp tác xã
mua bán xã và tổ hợp tác tiểu thương hoa hồng, còn thuế doanh thu của hợp tác
xã mua bán xã và tổ hợp tác tiểu thương, thì xí nghiệp bán lẻ giữ lại để nộp
cho ngân sách. Công thức tính như sau:
Tổng
số tiền bán hàng cho hợp tác xã mua bán xã và tổ hợp tác xã tiểu thương thu về
|
=
|
Tổng
trị giá bán ra cho hợp tác xã mua bán xã và tổ hợp tác xã tiểu thương theo
giá lẻ
|
-
|
Hoa
hồng để lại cho hợp tác xã mua bán xã và tổ hợp tác xã tiểu thương
|
Riêng các tổ
hợp tác tiểu thương tự nộp thuế doanh thu thì được trừ cả hoa hồng và thuế (hoa
hồng chỉ bao gồm chi phí lưu thông và lãi định mức của hợp tác xã tiểu thương).
3. Doanh số
để trích tỷ lệ phí, thuế, lãi từng định kỳ.
Doanh số nói
trên điều 2 là doanh số dùng để tính tỷ lệ phí, thuế và lãi kế hoạch. Còn doanh
số dùng để trích phí, thuế lãi từng định kỳ là doanh số bán hàng đã thu về và nộp
vào tài khoản đặc biệt của Ngân hàng cộng với số tiền bán hàng mà các xí nghiệp
nội thương được phép tọa chỉ.
4. Doanh số
để trích tỷ lệ phí, thuế lãi thực tế sau khi đã có quyết toán.
Như liên Bộ
đã quy định việc thu nộp ngân sách phải dựa trên thực tế kinh doanh, nhưng vì
trong tháng chưa có quyết toán nên việc trích nộp thuế và lãi theo định kỳ trên
cơ sở tỷ lệ phí, thuế lãi kế hoạch nhân với doanh số bán hàng thực nộp vào Ngân
hàng và số tiền cho phép đơn vị nội thương tọa chi.
Cuối tháng xí
nghiệp nội thương lên được cân đối tài khoản, lập được bản chi tiết lỗ lãi thì
xí nghiệp nội thưong phải căn cứ vào các tài liệu thực tế đó để xác định số thu
nộp thuế và lợi nhuận cho ngân sách.
5. Cách nộp
thuế và lãi bán hàng.
Cách trích nộp,
liên Bộ quy định như sau:
Từng định kỳ
từ một đến năm ngày, các đơn vị nội thương phải làm giấy xin trích tỷ lệ lãi gộp
(phí, thuế lãi) kèm theo giấy nộp thuế và lợi nhuận gửi đến Ngân hàng. Căn cứ
vào giấy xin trích tỷ lệ gộp, Ngân hàng sẽ cho trích phí, thuế lãi từ tài khoản
đặc biệt sang tài khoản tiền gửi thanh toán cho đơn vị nội thương, đồng thời
căn cứ vào giấy nộp lợi nhuận và thuế (số lợi nhuận và thuế phải đúng với số được
Ngân hàng cho trích từng định kỳ) của đơn vị nội thương, Ngân hàng trích ngay
tài khoản tiền gửi thanh toán để nộp vào ngân sách.
Mỗi lần đơn vị
nội thương xin trích phí, thuế lãi phải có cả giấy nộp lợi nhuận và thuế của định
kỳ đó gửi cho Ngân hàng và Tài chính. Nếu không có giấy nộp lợi nhuận và thuế
kèm theo thì nhất thiết Ngân hàng không cho trích. Đồng thời Ngân hàng phải báo
cáo cho Tài chính biết để đôn đốc đơn vị nội thương làm đầy đủ giấy tờ gửi cho
Ngân hàng theo đúng chế độ đã quy định.
Cuối tháng,
các đơn vị nội thương phải đối chiếu sổ trích nộp kế hoạch lãi và thuế từng định
kỳ với số thực tế đã thực hiện (doanh số thực tế, tỷ lệ phí thuế, lãi thực tế).
Sau khi đối chiếu giữa kế hoạch nếu Ngân hàng chưa cho trích đủ thì đơn vị nội
thương phải đề nghị Ngân hàng cho trích thêm nộp ngân sách phần thuế và lãi còn
thiếu. Nếu nộp thuế và lãi theo kế hoạch quá thực tế thì đơn vị nội thương đề
nghị Tài chính thoái trả lại.
Các đơn vị
Ngân hàng phải cho đơn vị nội thương trích đúng và đủ tỷ lệ phí, thuế lãi kế hoạch
nhân với doanh số bán hàng đã nộp vào tài khoản đặc biệt cộng cả doanh số mà
đơn vị nội thương được phép tọa chi. Cuối tháng có quyết toán thì đơn vị Ngân
hàng phải điều chỉnh theo phí, thuế lãi thực tế.
Trong quá
trình kinh doanh của thương nghiệp, các đơn vị Ngân hàng phải đẩy mạnh việc
thanh toán để thu nhanh tiền bán hàng về cho đơn vị bán để đơn vị bán có tiền nộp
thuế và lãi cho ngân sách, trả nợ vay Ngân hàng và đảm bảo các khoản chi phí của
xí nghiệp.
Tình hình hiện
nay, việc thanh toán tiền hàng của đơn vị nội thương đang gặp nhiều khó khăn cần
được nghiên cứu giải quyết, nhưng hiện nay ở các địa phương còn có tình trạng
tranh chấp nhau về thu nợ của Ngân hàng và thu nộp cho ngân sách, do đó liên Bộ
quy định như sau:
- Giải quyết
tốt vấn đề thu nộp và trả nợ Ngân hàng là đẩy mạnh việc thanh toán tiền hàng
nhanh chóng. Trong điều kiện hiện nay, số tiền bán hàng về không đủ để nộp ngân
sách và trả nợ Ngân hàng thì phải căn cứ vào số tiền đã thu được mà tính phí
thuế lãi, phần còn lại là vốn vay Ngân hàng thì phải trả nợ Ngân hàng không được
trừ phần nợ quá hạn vào phí thuế lãi được trích theo tỷ lệ kế hoạch.
Ví dụ: từ 1 đến
ngày 5, đơn vị thương nghiệp thu tiền bán hàng nộp vào tài khoản đặc biệt là
100.000đ thì đơn vị nội thương được trích 20.000đ về phí, thuế lãi (tỷ lệ phí
thuế lãi kế hoạch 20%), còn 80.000 trả nợ Ngân hàng. Trong số 20.000đ phí là 7%
trên doanh số thì đơn vị nội thương được gửi lại tài khoản tiền gửi thanh toán
là 7.000 để chi phí còn 13.000đ chuyển nộp vào ngân sách sau khi ngân hàng cho
trích.
Các Sở, Ty
Tài chính phải theo dõi, kiểm tra việc trích nộp thuế và lãi đúng chế độ, đúng
tỷ lệ quy định và khi có quyết toán chính thức, phải kịp thời cho đơn vị nội
thương điều chỉnh theo thực tế và phải bù lỗ kịp thời để khỏi ảnh hưởng đến vốn
kinh doanh, thông báo tính thuế để nộp trước đây nay bãi bỏ không thi hành nữa.
6. Cách nộp
thuế và lãi của các hoạt động kinh doanh nghiệp vụ khác và lãi ngoài doanh nghiệp
Trong ngành nội
thương ngoài kinh doanh bán hàng, còn có các hoạt động về ăn uống phục vụ, xí
nghiệp sản xuất công nghiệp, chăn nuôi, vận tải, kho tàng v.v... Những hoạt động
kinh doanh này có đơn vị đã được hạch toán kinh tế hoàn toàn, có đơn vị còn phụ
thuộc trong kinh doanh bán hàng. Nhưng về mặt hạch toán kế toán Bộ Nội thương
đã quy định các hoạt động kinh doanh nghiệp vụ khác phải hạch toán riêng bằng một
số tài khoản riêng để thể hiện được các chỉ tiêu bán hàng, giá vốn, chi phí,
thuế, lãi v.v...
Căn cứ vào
tính chất và trình độ hạch toán kinh tế của từng loại kinh doanh, từng đơn vị
hoạt động Ngân hàng cho vay vốn và Tài chính cấp vốn, thu lợi nhuận, thuế, khấu
hao.
Dưới đây là
những quy định cụ thể cho từng loại kinh doanh:
1. Cách nộp
thuế và lãi của các xí nghiệp ăn uống phục vụ đã hạch toán kinh tế hoàn toàn
Việc cấp vốn
và cho vay đối với ngành ăn uống phục vụ đã hạch toán kinh tế, áp dụng như chế
độ cấp vốn và cho vay công nghiệp hiện nay. Khi xí nghiệp thu được tiền bán
hàng thì nộp vào tài khoản tiền gửi thanh toán để chi phí sản xuất, nộp lãi và
thuế doanh nghiệp cho ngân sách và trích trả nợ Ngân hàng.
Lãi và thuế nộp
theo kế hoạch một tháng ba kỳ và khi có quyết toán chính thức sẽ điều chỉnh
theo thực tế.
2. Cách nộp
thuế và lãi sản xuất phụ thuộc, chăn nuôi kinh doanh nghiệp vụ khác và ngoài
doanh nghiệp:
a) Thuế và
lãi sản xuất phụ thuộc:
- Đối với
xí nghiệp sản xuất phụ thuộc đã hạch toán kinh tế hoàn toàn. Việc cấp vốn
và cho vay đối với các xí nghiệp này áp dụng như chế độ cấp vốn và cho vay công
nghiệp hiện nay. Khi xí nghiệp bán hàng, ngân hàng cho vay thanh toán gồm giá
thành và thuế hàng hóa nếu có, khi xí nghiệp thu được tiền bán hàng, Ngân hàng
sẽ thu hồi tiền cho vay thanh toán. Số tiền còn lại sẽ gửi vào tài khoản tiền gửi
thanh toán để nộp lãi sản xuất và thuế doanh nghiệp cho ngân sách, lãi và thuế
nộp theo kế hoạch một tháng ba kỳ và khi có quyết toán chính thức tháng sẽ điều
chỉnh theo thực tế.
- Đối với
xí nghiệp sản xuất phụ thuộc chưa hạch toán kinh tế hoàn toàn:
Việc cấp vốn
và cho vay áp dụng như chế độ cấp vốn và cho vay thương nghiệp (Nhà nước cấp
30%, Ngân hàng cho vay 70%); sản phẩm hoàn thành nhập kho kinh doanh thương
nghiệp thì Ngân hàng cho vay theo giá chỉ đạo nhập kho. Việc vay và trả nợ Ngân
hàng của phần sản xuất phụ thuộc thì Bộ Nội thương và Ngân hàng Nhà nước sẽ
nghiên cứu và quy định sau.
Lãi của xí
nghiệp sản xuất phụ thuộc (tức là khoản chênh lệch giữa giá thành thực tế và
giá thành kế hoạch) đơn vị nội thương sẽ nộp theo kế hoạch mỗi tháng hai kỳ và
sẽ điều chỉnh theo thực tế.
Chênh lệch sản
xuất (tức là khoản chênh lệch giữa giá thành kế hoạch và giá chỉ đạo nhập kho
trong đó có cả thuế) sẽ nộp vào ngân sách sau mỗi lần sản phẩm đã nhập kho và
được Ngân hàng cho vay.
b) Thuế và
lãi chăn nuôi:
- Đối với
chăn nuôi dự trữ lâu dài đã hạch toán kinh tế hoàn toàn thì Nhà nước cấp thẳng
70% và chuyển 30% qua Ngân hàng cho vay. Lãi của khâu này do dôi cân và tăng cấp
mà có… Hàng năm, đơn vị chăn nuôi căn cứ vào kế hoạch bán hàng và tỷ lệ lãi và
thuế kế hoạch để tính kế hoạch nộp ngân sách. Kế hoạch năm có chia ra quý và
tháng; nếu lỗ thì lập kế hoạch lỗ, cũng chia từng quý và tháng. Các đơn vị chăn
nuôi căn cứ vào kế hoạch đã được duyệt hàng tháng nộp và ngân sách hai kỳ, kỳ
thứ nhất từ 1 đến 15 nộp 40%, kỳ thứ hai từ 15 đến 30 nộp 60% còn lại. Nếu đơn
vị chăn nuôi có lỗ kế hoạch, thì do các Ty Tài chính trực tiếp cấp bù kế hoạch
hàng tháng. Cuối tháng lên xong quyết toán thì điều chỉnh theo thực tế.
Đối với
chăn nuôi dự trữ giết thịt, nếu có một phần chăn nuôi phụ thuộc, thì cũng hạch
toán vào kinh doanh thương nghiệp nên không trích nộp riêng.
- Đối với
chăn nuôi lâu dài chưa hạch toán kinh tế hoàn toàn thì việc cấp vốn
và cho vay áp dụng như chế độ cấp vốn và cho vay thương nghiệp. Việc nộp lãi, nộp
thuế áp dụng như kinh doanh thương nghiệp nghĩa là tiền bán hàng vẫn nộp vào
tài khoản đặc biệt của ngân hàng. Khi tính tỷ lệ phí, thuế và lãi kế hoạch được
cộng vào phí, thuế lãi bán hàng để trích nộp ngân sách.
c) Thuế và
lãi kinh doanh nghiệp vụ kho tàng, vận tải, kinh doanh nghiệp vụ khác
Đối với các
loại kinh doanh nghiệp vụ này, nếu hoạt động kinh doanh nào có quan hệ vay Ngân
hàng, thì thu nhập của hoạt động kinh doanh đó sẽ nộp vào tài khoản cho vay đặc
biệt của Ngân hàng; nếu hoạt động nào không vay Ngân hàng thì thu nhập của hoạt
động đó được nộp vào tài khoản tiền gửi thanh toán để chi phí.
Việc trích nộp
thuế và lãi của các hoạt động kinh doanh này quy định như sau:
- Những đơn vị
thương nghiệp kiêm cả kinh doanh nghiệp vụ vận tải, kho tàng… vay vốn Ngân
hàng, thì số doanh thu từng kỳ phải nộp vào tài khoản đặc biệt của Ngân hàng,
khi lập kế hoạch tỷ lệ phí, thuế, lãi phần kinh doanh thương nghiệp phải cộng
thêm cả phí, thuế, lãi của kinh doanh nghiệp vụ kho tàng vận tải… để nhân số tiền
bán hàng đã nộp vào Ngân hàng. Từng tuần kỳ đơn vị nội thương trích phí thuế
lãi từ tài khoản đặc biệt của Ngân hàng phải đồng thời nộp thuế lãi và ngân
sách như đã quy định ở phần nộp lãi kinh doanh thương nghiệp.
- Những đơn vị
thương nghiệp kiêm cả kinh doanh nghiệp vụ vận tải kho tàng… nhưng không vay vốn
Ngân hàng thì không nộp tiền doanh thu vào tài khoản đặc biệt của Ngân hàng mà
nộp vào tài khoản tiền gửi thanh toán để chi phí và nộp thuế và lãi cho ngân
sách. Thuế và lãi của các nghiệp vụ vận tải, kho tàng... nộp một tháng hai kỳ
theo kế hoạch. Cuối tháng có quyết toán phải nộp theo thực tế.
d) Các khoản
thu ngoài doanh nghiệp:
Trong kinh
doanh thương nghiệp, ngoài những khoản thu về bán hàng, khoản thu về kinh doanh
nghiệp vụ khác còn có các khoản thu ngoài doanh nghiệp như tiền bán bao bì, phế
liệu, phế phẩm, thu hồi số tàn dư của tài sản cố định, tiền thu về phạt vi phạm
hợp đồng, tiền dôi thừa v.v… đều được nộp vào tài khoản tiền gửi thanh toán và
hàng tháng đơn vị nội thương phải nộp cho ngân sách.
II. ĐIỀU CHỈNH SỐ NỘP THEO THỰC TẾ
1. Điều chỉnh
doanh số theo thực tế:
Doanh số
trích từng định kỳ trong tháng là số tiền bán hàng thực nộp vào tài khoản đặc
biệt của Ngân hàng cộng với doanh số bán hàng mà đơn vị nội thương được phép tọa
chi.
Nhưng nếu đem
đối chiếu doanh số trong quyết toán và doanh số lấy ở tài khoản đặc biệt của
Ngân hàng trong tháng thì sẽ chênh nhau, có khi doanh số trong quyết toán nhiều
hơn hoặc ít hơn doanh số trong tài khoản đặc biệt của Ngân hàng và ngược lại. Sở
dĩ có tình hình như vậy là vì doanh số trong quyết toán bao gồm cả một phần
doanh số đã bán ra nhưng chưa thu được tiền về, nhưng doanh số trong tài khoản
đặc biệt của Ngân hàng gồm phần lớn là doanh số bán ra trong tháng đã thu tiền
về cộng với doanh số của tháng trước đến tháng này mới thu được tiền về.
Để giải quyết
việc thu nộp đúng thực tế liên Bộ quy định như sau:
- Khi có quyết
toán thì đơn vị nội thương phải lấy doanh số trong quyết toán để tính thuế và
lãi nộp ngân sách thì liên Bộ nhận định rằng quyết toán hàng tháng lên xong
cũng phải sau 10 đến 15 ngày, thời gian đó thì số tiền bán hàng tháng trước đã
được thu về vào đầu tháng sau và các định kỳ đầu tháng đã trích nộp vào ngân
sách. Vì vậy việc xác định doanh số trong tháng cũng chỉ để làm cơ sở điều chỉnh
tỷ lệ phí thuế lãi thực tế.
- Công thức
tính doanh số trong tháng như sau:
Doanh
số bán ra trong tháng (theo quyết toán)
|
=
|
Doanh
số thực thu đã nộp vào Ngân hàng
|
-
|
Doanh
số của tháng trước còn lại
|
+
|
Doanh
số chuyển sang tháng sau
|
2. Điều chỉnh
phí thuế lãi theo thực tế
Phí thuế lãi dùng
để tính từng định kỳ trong tháng là phí thuế lãi kế hoạch nên khi lập xong quyết
toán tháng các đơn vị nội thương phải lấy phí thuế lãi thực tế để điều chỉnh.
Căn cứ vào tỷ
lệ gộp kế hoạch (gồm phí thuế lãi) từng định kỳ Ngân hàng cho đơn vị nội thương
trích từ tài khoản đặc biệt sang tài khoản tiền gửi thanh toán để chi phí lưu
thông và nộp ngân sách các khoản thuế và lãi. Nay có tỷ lệ phí thuế lãi thực tế
thì đơn vị nội thương phải báo cáo cho Tài chính và Ngân hàng để điều chỉnh
theo thực tế.
Ở đây liên Bộ
nói rõ quan hệ giữa đơn vị nội thương với Ngân hàng về tính tỷ lệ gộp và quan hệ
giữa đơn vị nội thương với ngân sách về nộp thuế và lợi nhuận:
Quan hệ giữa
Ngân hàng và đơn vị nội thương trong việc trích phí thuế lãi
- Khi lên quyết
toán có tỷ lệ phí thuế lãi thực tế, nếu Ngân hàng cho trích chưa đủ thì Ngân
hàng phải cho trích thêm để đơn vị nội thương có tiền chi phí nộp thuế và lãi
cho ngân sách, nếu Ngân hàng đã cho trích quá thực tế thì đơn vị nội thương phải
trích tài khoản tiền gửi thanh toán trả lại cho Ngân hàng số tiền đã trích quá
đó.
Quan hệ
giữa Tài chính và Nội thương trong việc trích nộp thuế lãi
Căn cứ vào
quyết toán Tài chính cũng đối chiếu số thuế và lãi đã nộp theo kế hoạch với số
lợi nhuận và thuế thực tế, nếu nộp chưa đủ thì đơn vị thương nghiệp phải trích
tài khoản tiền gửi nộp cho đủ và ngân sách, nếu nộp lãi và thuế quá thực tế thì
Tài chính thoái trả lại ngay. Trường hợp Ngân hàng đã trích đủ nhưng đơn vị
thương nghiệp không nộp đủ thuế và lãi cho ngân sách mà lại đem chi dùng vào việc
khác thì kỳ trích lần sau sẽ trừ vào phần phí của đơn vị nội thương, một lần
trích không đủ thì lần khác sẽ trích thêm cho đến khi nộp đủ lợi nhuận và thuế
cho ngân sách. Đồng thời các cơ quan tài chính sẽ kiểm điểm với đơn vị thương
nghiệp có ghi biên bản để cuối năm làm cơ sở cho việc xét duyệt trích quỹ xí
nghiệp.
3. Vấn đề
thoái thu:
Những khoản
mà các đơn vị nội thương đã nộp quá vào ngân sách, cần phải thoái thu thì năm
ngày sau khi nhận được quyết toán tháng hoặc quý, các Sở, Ty tài chính phải
thoái trả cho các đơn vị cấp II bán buôn và các xí nghiệp bán lẻ huyện, thị xã
và hợp tác xã mua bán huyện phần đã nộp vào ngân sách địa phương. Còn phần đã nộp
vào ngân sách trung ương của các đơn vị này cũng như của các đơn vị cấp I thuộc
ngân sách trung ương thì Bộ Tài chính ủy nhiệm cho các Sở, Ty Tài chính thoái
trả bằng cách trừ vào phần lãi kế hoạch phải nộp tháng sau, trường hợp còn thiếu
thì được lấy lãi các đơn vị nội thương khác để bù. Số tiền được bù này phải trả
nợ cho Ngân hàng. Thời gian hoàn thành thoái thu chậm nhất là một tháng sau khi
nhận được quyết toán của đơn vị. Các Sở, Ty Tài chính phải báo cáo cho Bộ Tài
chính biết những số thoái trả này.
4. Vấn đề
bù lỗ kế hoạch :
Những khoản lỗ
trong kế hoạch thì hàng tháng cơ quan tài chính được Bộ Tài chính ủy nhiệm cấp
bù lỗ ngay, bằng cách trừ vào phần lãi phải nộp trong tháng của các đơn vị nội
thương khác có lãi. Các Sở, Ty Tài chính phải báo cáo cho Bộ Tài chính biết số
bù lỗ này.
5. Vấn đề
bù lỗ ngoài kế hoạch và vượt kế hoạch
- Bù lỗ do
nguyên nhân khách quan. Đối với đơn vị bán buôn cấp II và các xí nghiệp bán
lẻ huyện, thị xã và hợp tác xã mua bán huyện thì cơ quan tài chính địa phương sẽ
cho bù lỗ hoặc cho trừ kế hoạch nộp kỳ sau thuộc phần ngân sách địa phương. Các
đơn vị bán buôn cấp II và các xí nghiệp bán lẻ huyện, thị xã và hợp tác xã mua
bán huyện thuộc phần ngân sách trung ương, các đơn vị cấp I thuộc ngân sách
trung ương, thì Bộ Tài chính ủy nhiệm cho các Sở, Ty Tài chính xét ký và quyết
định mức phải bù lỗ thêm.
Để tiến hành
bù lỗ, các Sở, Ty Tài chính có thể cho phép trừ vào phần lãi kế hoạch phải nộp
tháng sau. Các Sở, Ty Tài chính phải kiểm tra kỹ lưỡng tình hình trước khi quyết
định và làm báo cáo cụ thể cho Bộ Tài chính.
- Bù lỗ do
nguyên nhân chủ quan: Đối với cấp II và xí nghiệp bán lẻ phần thuộc ngân
sách địa phương, việc bù lỗ do nguyên nhân chủ quan gây ra sẽ do Ủy ban hành
chính địa phương quyết định. Phần thuộc ngân sách trung ương của các đơn vị nói
trên và các đơn vị cấp 1 phải do Bộ Tài chính xét và quyết định.
Trường hợp phải
bù lỗ ngay để khỏi trở ngại cho kinh doanh, cơ quan tài chính có thể dùng điện
khẩn báo cáo cho Bộ Tài chính, đồng thời gửi ngay báo cáo cụ thể hoặc cử cán bộ
về báo cáo.
6. Vấn đề
sử dụng nợ định mức:
Việc trích nộp
các khoản lãi và thuế một tháng nhiều lần cho ngân sách sẽ làm cho việc sử dụng
nợ định mức về lãi và thuế trong kế hoạch định mức vốn lưu động của các đơn vị
nội thương giảm đi.
Ví dụ: Lãi và
thuế của đơn vị nội thương mỗi tháng phải nội vào ngân sách 1.200.000đ. Thời
gian nộp quy định trước là 15 ngày một lần, nay 6 ngày một lần thì nợ định mức
sẽ thay đổi như sau:
- Nếu nộp một
tháng hai lần thì nợ định mức là:
300.000đ =
X ngày
- Nếu nộp một
tháng sáu lần thì nợ định mức là:
120.000đ =
X ngày
Các cơ quan
tài chính phải xem xét lại cách tính nợ định mức của các đơn vị nội thương,
tránh tính quá cao cũng như là không tính.
B. VẤN ĐỀ NỘP
NGÂN SÁCH CÁC KHOẢN CHÊNH LỆCH GIA CÔNG, TĂNG GIÁ CHÊNH LỆCH KHU VỰC, CHÊNH LỆCH
BÁN HÀNG CUNG CẤP VÀ GIẢI QUYẾT TÀI SẢN THỪA THIẾU, CÔNG NỢ DÂY DƯA KHÓ ĐÒI
I. CHÊNH LỆCH HÀNG GIA CÔNG
(tài khoản
...)
Thông tư số
21-LB đã quy định nguyên tắc và nội dung nộp khoản chênh lệch hàng gia công,
nay liên Bộ giải thích rõ thêm:
1. Đối với
đơn vị gia công đã hạch toán kinh tế hoàn toàn:
a) Việc cấp vốn
và cho vay với các đơn vị gia công hạch toán kinh tế hoàn toàn được định mức
riêng và tạm thời Nhà nước cấp 50%, Ngân hàng cho vay 50% bằng vốn tín dụng.
b) Hàng hóa
gia công sau khi được kiểm nhận, đơn vị gia công hạch toán kinh tế có thể chuyển
thẳng đến kho nội thương cấp I, hoặc tạm thời phải qua kho thu hóa một thời
gian ngắn. Trường hợp chuyển thẳng khi giao hàng đi nhưng chưa thu tiền về thì
Ngân hàng cho đơn vị gia công vay theo giá thành kế hoạch bao gồm thuế hàng hóa
(nếu có) đồng thời Ngân hàng cho đơn vị bán buôn cấp I nội thương vay theo giá
chỉ đạo nhập kho để thanh toán với các đơn vị gia công, khi nhận được tiền bán
hàng thì Ngân hàng sẽ thu hồi nợi cho vay thanh toán, số còn lại đưa vào tài
khoản tiền gửi thanh toán để đơn vị gia công nộp chênh lệch gia công và lãi gia
công cho ngân sách.
c) Trường hợp
tạm thời qua kho thu hóa của đơn vị gia công thì đơn vị chỉ được định mức dự trữ
tối thiểu và khi hàng gia công nhập kho thu hóa, Ngân hàng cho vay theo giá
thành kế hoạch bao gồm thuế hàng hóa (nếu có). Khi bán hàng cho đơn vị bán buôn
cấp I nội thương thì việc cho vay của Ngân hàng cũng như việc nộp lãi gia công
và chênh lệch gia công cho ngân sách giống như trường hợp hàng gia công chuyển
thẳng cho kho nội thương cấp I.
d) Trong điều
kiện hiện nay việc tính toán giá thành thực tế chưa làm được hàng tháng, số thu
nộp ngân sách gặp nhiều khó khăn. Có đơn vị gia công đến ay vẫn chưa nộp lãi và
chênh lệch gia công cho ngân sách.
Liên Bộ quy định:
Lãi gia
công là khoản chênh lệch giữa giá thành kế hoạch và giá thành thực tế.
Các đơn vị
gia công phải căn cứ vào tình hình thực tế mà sửa đổi giá thành kế hoạch cho
sát thực tế, do đó mà không còn không còn rất ít khoản chênh lệch giữa giá
thành kế hoạch và giá thành thực tế. Trong khi chờ đợi việc sửa đổi giá thành kế
hoạch, các đơn vị gia công phải căn cứ vào tỷ lệ lãi gia công thực tế các năm
trước mà định một tỷ lệ lãi kế hoạch trên giá thành kế hoạch để hàng tháng
trích nộp vào ngân sách. Tỷ lệ lãi gia công kế hoạch của đơn vị gia công hạch
toán kinh tế phải được cả ba ngành Tài chính – Ngân hàng – Nội thương thống nhất.
Khi lên được quyết toán thì phải điều chỉnh số lãi theo thực tế. Nếu thuế phải
nộp cho đủ và nếu thừa Tài chính phải thoái lại.
Chênh lệch
gia công là khoản chênh lệch giữa giá thành kế hoạch và giá bán của
đơn vị gia công (tức là giá chỉ đạo nhập kho của đơn vị bán buôn cấp 1). Mỗi lần
giao hàng cho người mua, đơn vị gia công phải căn cứ vào số lượng hàng giao đi
và mức chênh lệch giá gia công của mặt hàng hoặc nhóm hàng và tính số chênh lệch
gia công kế hoạch để nộp vào ngân sách.
Những khoản
lãi gia công, các đơn vị gia công phải nộp cho ngân sách một tháng ba kỳ. Những
khoản chênh lệch gia công thì mỗi lần giao hàng cho người mua thu tiền về đơn vị
phải nộp ngay vào ngân sách theo như tính toán trên.
Sau khi có
quyết toán chính thức hoặc cân đối tài khoản tháng hoặc quý thì sẽ điều chỉnh.
Nếu nộp chưa đủ, Ngân hàng tiếp tục cho trích tài khoản tiền gửi thanh toán để
nộp thêm, nếu nộp quá, các Sở, Ty tài chính phải thoái trả kịp thời. Thủ tục
thoái trả cũng giống như đối với việc thoái trả lãi nộp thừa nói trên.
2. Đối với
các đơn vị gia công phụ thuộc:
a) Nguyên liệu
đã có trong định mức tồn kho kinh doanh nội thương nên không cấp vốn và cho vay
riêng.
b) Quá trình
gia công, Ngân hàng cho đơn vị nội thương vay vốn mua nguyên liệu để gia công
cho hợp tác xã còn chi phí gia công của hợp tác xã thì Ngân hàng cho hợp tác xã
vay trực tiếp.
c) Khi hàng
hóa được nhập kho nội thương, Ngân hàng cho vay theo giá nhập kho (trong đó có
thuế hàng hóa nếu có, trừ khoản cho vay nguyên liệu). Số còn lại gửi vào tài
khoản tiền gửi thanh toán để nộp lãi gia công và chênh lệch gia công, cách tính
toán và thời gian nộp các khoản lãi gia công và chênh lệch gia công đã nói ở phần
1 – đơn vị gia công đã hạch toán kinh tế hoàn toàn.
3. Nói
chung đối với đơn vị gia công đã hạch toán kinh tế hoặc chưa hạch toán kinh tế
muốn vay vốn Ngân hàng phải có những giấy tờ cần thiết để Ngân hàng xét, đối với
đơn vị hạch toán kinh tế phải có những chứng từ giao hàng cho người mua mới được
vay thanh toán và đơn vị bán buôn cấp 1 phải có chứng từ bán hàng của đơn vị
gia công, Ngân hàng mới cho vay để thanh toán tiền hàng.
Đối với đơn vị
nội thương kiêm gia công phụ thuộc phải có bảng kê kèm theo chứng từ nhập kho số
hàng gia công đã nhập ho thì Ngân hàng mới cho vay theo giá chỉ đạo nhập kho.
Các đơn vị nội thương phải gia công những loại hàng tiêu thụ được, nhất thiế
không được gia công những loại hàng cũ ứ đọng. Trong khi cho vay nếu Ngân hàng
phát hiện ra đơn vị gia công những loại hàng đã ứ đọng thì Ngân hàng không cho
vay để nhập kho những loại hàng đó và trích tài khoản tiền gửi thnh để thu về
giá trị nguyên liệu nằm trong hàng gia công ứ đọng đó, nếu tài khoản thanh toán
không có tiền thì chuyển qua nợ quá hạn. Việc xác định hàng hóa ứ đọng phải được
ba ngành thống nhất kết luận.
Hiện nay Nhà
nước có chủ trương giảm giá gia công tức là điều chỉnh giảm định mức nguyên liệu,
vật liệu gia công và giảm định mức chi phí gia công. Như vậy sẽ tiết kiệm
nguyên liệu, vật liệu cho một đơn vị sản phẩm, giảm chi phí gia công cho một
đơn vị sản phẩm và sẽ làm tăng thêm số chênh lệch gia công. Các địa phương và
ngành thương nghiệp cần xúc tiến gấp việc tiến hành giảm giá gia công theo như
chủ trương của Chính phủ đã định và làm đến đâu thì phải tính ngay số chênh lệch
gia công để nộp thêm cho ngân sách.
II. CHÊNH LỆCH TĂNG GIẢM GIÁ
Hiện nay Nhà
nước đã quyết định tăng giảm giá một số mặt hàng công nghệ phẩm và thực phẩm… Mỗi
lần tăng hoặc giảm giá, Bộ Nội thương đã có hướng dẫn thi hành. Nhưng vì giá
tăng giảm đều có quan hệ đến người mua, đến người bán, quan hệ đến vay vốn Ngân
hàng, đến thu nộp và cấp vốn của ngân sách... Về tài vụ và kế toán của đơn vị nội
thương, mỗi khi có quyết định tăng giảm giá cũng phải điều chỉnh và hướng dẫn hạch
toán thống nhất từ cấp I xuống xí nghiệp bán lẻ.
Tuy vậy tình
hình giải quyết tăng giảm giá ở các địa phương, các đơn vị nội thương chấp hành
không thống nhất, có những quy định của liên Bộ về vấn đề này đến nay vẫn chưa
được chấp hành triệt để. Các cơ quan Ngân hàng và Tài chính tỉnh cũng chưa tích
cực đôn đốc kiểm tra giúp đỡ đơn vị thương nghiệp giải quyết.
Việc điều chỉnh
tăng giảm giá như trên đã nói rất phức tạp. Vì vậy liện Bộ thấy cần phải có những
quy định cụ thể để các đơn vị Nội thương, Ngân hàng, Tài chính thi hành cho thống
nhất.
1. Các trường
hợp tăng giảm giá được quy định dưới đây:
a) Tăng giá
bán lẻ nhưng không tăng giá mua đối với xí nghiệp sản xuất công nghiệp và ngoại
thương.
b) Giảm giá
bán lẻ nhưng không tăng giá mua đối với xí nghiệp sản xuất công nghiệp và ngoại
thương.
c) Tăng giá
mua nhưng không tăng giá bán lẻ.
d) Tăng giá
mua nhưng lại tăng giá bán lẻ.
2. Nguyên
tắc chung trong việc giải quyết những loại hàng tăng giảm giá
Hiện nay thu
quốc doanh đang tiến hành ở cấp I, nhưng số thu của Nội thương chưa dồn sang
khâu sản xuất mà còn tạm thời để ở khâu thương nghiệp bán buôn cấp I. Vì vậy
liên Bộ quyết định:
a) Mỗi lần
Nhà nước quyết định tăng hoặc giảm giá đều dồn số thu tăng giá (lãi) và giảm
thu do hạ giá (lỗ) cho công ty cấp I.
b) Các công
ty cấp II mua hàng của công ty bán buôn cấp I thì được lấy giá bán lẻ mới trừ
chiết khấu của cấp II (tỷ lệ chiết khấu không thay đổi).
Ví dụ: khi
chưa có quyết định tăng giảm giá:
Cấp I bán cho
cấp II một chiếc xe đạp giá lẻ là 400đ trừ 10% là 40đ = giá mua của cấp II đối
với cấp I là 360đ.
Công thức
tính:
Giá
mua của cấp II đối với cấp I
|
=
|
Giá
bán lẻ tại đơn vị cấp II
|
-
|
Chiết
khấu của cấp II
|
360đ
|
=
|
400đ
|
-
|
40đ
(tỷ
lệ 10%)
|
Khi có quyết
định tăng giá:
Nhà nước quyết
định tăng giá bán lẻ một chiếc xe đạp là 750đ
675đ = 750đ –
75đ (tỷ lệ 10%)
c) Tỷ lệ chiết
khấu của cấp II được giữ nguyên nên số tuyệt đối về chiết khấu thay đổi:
- Nếu Nhà nước
quyết định tăng giá bán lẻ thì chiết khấu tuyệt đối sẽ tăng:
Chiết khấu
cũ: = 40đ
Chiết khấu mới:
= 75đ
- Nếu Nhà nước
quyết định giảm giá bán lẻ thì số chiết khấu tuyệt đối sẽ giảm:
Chiết khấu cũ
cho 1m len : = 8đ
Chiết khấu mới
cho 1m len : = 5đ
Để bảo đảm
cho đơn vị nội thương có đủ phí tổn lưu thông hàng hóa tiếp tục kinh doanh, đảm
bảo chế độ nộp thuế doanh thu cho Nhà nước và đảm bảo lỗ lãi theo thực tế, liên
Bộ quy định mỗi khi thay đổi tăng giảm giá thì tỷ lệ phí thuế lãi trong chiết
khấu sẽ áp dụng như sau:
-
|
Phí lưu thông hàng hóa
|
:
|
Số tuyệt đối
giữ nguyên
Tỷ lệ phí
so doanh số thay đổi
|
-
|
Thuế doanh thu
|
:
|
Số tuyệt đối
thay đổi
Tỷ lệ giữ
nguyên 2,5%
|
-
|
Lãi bán hàng
|
:
|
Số tuyệt đối
và tỷ lệ đều thay đổi
|
Dưới đây liên
Bộ hướng dẫn từng trường hợp tăng giảm giá để các đơn vị Nội thương, Ngân hàng,
Tài chính thi hành:
a) Tăng
giá bán lẻ nhưng không tăng giá mua đối với xí nghiệp sản xuất công nghiệp và
ngoại thương
Ở cấp I:
Tăng giá bán lẻ nhưng không tăng giá mua thì:
- Tỷ lệ và số
chiết khấu tuyệt đối đều tăng.
- Trong chiết
khấu thì tỷ lệ chiết khấu của cấp II giữ nguyên. Chiết khấu bản thân công ty cấp
II thì số phí tuyệt đối được giữ nguyên, tỷ lệ phí sẽ giảm xuống (số phí tuyệt
đối giữ nguyên lãi so với doanh số cao thì tỷ lệ phí sẽ giảm). Lãi của cấp I
tăng cả về số tuyệt đối và tỷ lệ.
- Định mức vốn
hàng hóa dự trữ không tăng, nhưng chiết khấu chưa thực hiện của cấp I sẽ tăng
lên.
Ở cấp II: Tăng
giá bán lẻ đồng thời lại tăng giá mua đối với cấp I. Do đó:
- Tỷ lệ chiết
khấu không thay đổi, nhưng trong chiết khấu thì:
Số phí tổn
lưu thông hàng hóa tuyệt đối giữ nguyên.
Tỷ lệ phí giảm
xuống
Thuế giữ nguyên
tỷ lệ 2,5% so với doanh số mới nên số thuế tuyệt đối tăng.
Số lãi tuyệt
đối và tỷ lệ lãi tăng.
- Định mức vốn
hàng hóa dự trữ tăng lên, nhưng tỷ lệ chiết khấu chưa thực hiện không tăng.
b) Giảm
giá bán lẻ nhưng không giảm giá mua đối với xí nghiệp sản xuất công nghiệp và
ngoại thương
Ở cấp I:
Giảm giá bán lẻ nhưng không giảm giá mua đối với xí nghiệp sản xuất công nghiệp
và ngoại thương, thì:
- Tỷ lệ và số
chiết khấu tuyệt đối đều giảm.
- Trong chiết
khấu thì tỷ lệ chiết khấu cấp II giữ nguyên.
Chiết khấu của
bản thân cấp I thì: phí tuyệt đối giữ nguyên nên tỷ lệ phí tăng so doanh số mới.
Lãi tuyệt đối và tỷ lệ lãi đều giảm.
- Định mức vốn
hàng hóa dữ trữ không tăng nhưng chiết khấu chưa thực hiện giảm cả số tuyệt đối
và tỷ lệ.
Ở cấp II:
Giảm giá bán lẻ nhưng lại giảm giá mua. Do đó:
- Tỷ lệ chiết
khấu giữ nguyên nhưng số chiết khấu tuyệt đối giảm.
- Trong chiết
khấu thì:
Số phí tổn
lưu thông hàng hóa tuyệt đối giữ nguyên riêng tỷ lệ phí tăng (phí tuyệt đối giữ
nguyên lãi so với doanh số giảm nên tỷ lệ tăng).
Tỷ lệ thuế giữ
2,5% nên số tuyệt đối giảm.
Lãi tuyệt đối
và tỷ lệ lãi đều giảm. Nếu Nhà nước quyết định giảm giá bán lẻ xuống dưới giá
mua thì lỗ.
- Định mức vốn
hàng hóa dự trữ của cấp II sẽ giảm. Chiết khấu chưa thực hiện giảm cả số tuyệt
đối và tỷ lệ.
c) Tăng
giá mua nhưng không tăng giá bán lẻ
Ở cấp I:
Tăng giá mua nhưng không tăng giá bán thì:
- Tỷ lệ chiết
khấu giảm
- Trong chiết
khấu thì tỷ lệ chiết khấu cấp II không thay đổi. Chiết khấu cấp I thì :
- Số phí tuyệt
đối và tỷ lệ không thay đổi.
- Số lãi và tỷ
lệ đều giảm.
- Định mức vốn
hàng hóa dự trữ tăng lên. Chiết khấu chưa thực hiện giảm cả tỷ lệ và số tuyệt đối.
Ở cấp II:
giá bán lẻ và giá mua của cấp I không thay đổi. Do đó chiết khấu (phí, thuế,
lãi) vốn không thay đổi.
d) Tăng
giá mua đồng thời tăng giá bán lẻ:
Ở cấp I:
Tăng giá mua đồng thời tăng giá bán lẻ thì:
- Số chiết khấu
tuyệt đối giữ nguyên tỷ lệ chiết khấu giảm.
- Trong chiết
khấu thì chiết khấu của cấp II giữ nguyên.
Trong chiết
khấu của bản thân cấp I thì:
+ Số phí tuyệt
đối giữ nguyên nhưng tỷ lệ phí giảm;
+ Số lãi tuyệt
đối giữ nguyên nhưng tỷ lệ lãi giảm.
- Định mức vốn
hàng hóa dự trữ tăng. Chiết khấu chưa thực hiện giữ nguyên số tuyệt đối nhưng tỷ
lệ giảm.
Ở cấp II:
Tăng giá mua và đồng thời tăng giá bán lẻ thì:
- Tỷ lệ chiết
khấu giữ nguyên, nhưng số chiết khấu tuyệt đối tăng lên.
- Trong chiết
khấu thì:
+ Số phí tuyệt
đối giữ nguyên nhưng tỷ lệ phí giảm.
+ Thuế doanh
thu giữ 2,5% trên doanh số mới nên số thuế tuyệt đối tăng.
+ Tỷ lệ lãi
và số lãi tuyệt đối đều tăng.
- Định mức vốn
dự trữ tăng lên, tỷ lệ chiết khấu chưa thực hiện không tăng nhưng số chiết khấu
tuyệt đối tăng lên.
3. Biện
pháp thi hành mỗi khi có quyết định tăng giảm giá ở các đơn vị Nội thương, Ngân
hàng và Tài chính.
Mỗi khi Nhà
nước có quyết định tăng giảm giá thì các đơn vị nội thương các cấp phải tính lại
số thuế và số lãi của những mặt hàng tăng hoặc giảm giá, điều chỉnh lại tỷ lệ
chiết khấu của cả đơn vị để đề nghị Ngân hàng cho trích theo tỷ lệ mới. Riêng cấp
II không phải điều chỉnh tỷ lệ chiết khấu chung vì dù tăng giá hoặc giảm giá, tỷ
lệ chiết khấu vẫn giữ nguyên, nhưng phải điều chỉnh lại tỷ lệ phí và tỷ lệ lãi
để trích nộp cho ngân sách đúng với thực tế.
Đối với số
hàng hóa tồn kho đến ngày tăng giảm giá phải kiểm kê tính theo giá bán lẻ và
giá vốn mới. sau khi kiểm kê nếu trị giá vốn tồn kho tăng lên thì số chênh lệch
tăng đó phải nộp và ngân sách đồng thời Nhà nước cấp lại cho Bộ Nội thương cả
100% số tăng đó để có đủ vốn tiếp tục kinh doanh. Đối với loại hàng tồn kho thuộc
loại giảm giá bán lẻ cần phân biệt hai loại:
Nếu hạ giá
bán lẻ nhưng chỉ mất lãi thì số hàng hóa tồn kho không phải giảm vốn mà chỉ giảm
chiết khấu chưa thực hiện.
Nếu hạ giá
bán lẻ mà mất đến giá vốn thì số hàng hóa tồn kho phải trị giá lại, số chênh lệch
giảm đó là lỗ thì đơn vị thương nghiệp phải xin giảm 30% vốn tự có phần Nhà nước
đã cấp và trích vào lãi nộp ngân sách thêm 70% số chênh lệch giảm để trả nợ
Ngân hàng.
III. CHÊNH LỆCH GIÁ KHU VỰC
(Tài khoản...)
Khoản thu về
chênh lệch giá khu vực thực chất là lợi nhuận nhưng được hạch toán trong tài
khoản chênh lệch giá phải nộp ngân sách. Do đó trong tỷ lệ gộp không bao gồm
khoản này, nhưng khi thu tiền bán hàng về đơn vị nội thương đã nộp cả vào tài
khoản đặc biệt. Nếu muốn trích nộp khoản chênh lệch giá khu vực, đơn vị nội
thương phải thống kê được số chênh lệch này để Ngân hàng có căn cứ cho trích
trong tài khoản đặc biệt nộp vào ngân sách theo định kỳ hàng tháng do Sở, Ty
Tài chính và đơn vị nội thương quy định. Vì vậy khi tài khoản chênh lệch giá
khu vực phải hoàn trả cho Ngân hàng khoản tỷ lệ gộp phần chênh lệch giá đã tính
trên doanh số thu tiền về.
IV. CHÊNH LỆCH HÀNG BÁN CUNG CẤP CHO CÁN BỘ, CÔNG NHÂN VIÊN
(Tiểu, khoản...)
Khoản chênh lệch
hàng bán cung cấp này trước đây tính bù trừ trong khoản chênh lệch tăng giảm
giá, nhưng thực chất phải trừ vào khoản lãi nộp mới đúng. Do đó nay quy định lại
khoản chênh lệch hàng bán cung cấp cho cán bộ, công nhân viên phải hạch toán
riêng và chuyển trừ vào lãi nộp (tức là chuyển vào khoản vốn trích khác).
V. VẤN ĐỀ TÀI SẢN THỪA THIẾU CHỜ GIẢI QUYẾT (Tài khoản 108 và
106). VẤN ĐỀ CÔNG NỢ DÂY DƯA KHÓ ĐÒI CỦA NGÀNH NỘI THƯƠNG
Hiện nay số
tài sản thừa, thiếu chờ giải quyết, các khoản công nợ dây dưa khó đòi các đơn vị
nội thương nhưng còn tồn tại nhiều. Nhiều khoản phát sinh từ lâu nhưng đến nay
vẫn chưa giải quyết. Hàng năm, số tài sản thừa, thiếu, các khoản công nợ vẫn tiếp
tục phát sinh đã làm cho việc kinh doanh, và tình hình tài vụ của các đơn vị nội
thương gặp khó khăn ảnh hưởng đến hoạt động của ngành nội thương.
Để giải quyết
các loại tài sản thừa, thiếu, các loại công nợ, liên Bộ quy định những điểm cụ
thể sau đây:
- Các địa
phương phải thành lập những Hội đồng xử lý tài sản tổn thất. Thành phần phải gồm
đủ ba ngành Ngân hàng – Tài chính – Nội thương dưới sự chỉ đạo của Ủy ban hành
chính tỉnh, thành.
Đơn vị nội
thương phải trình bày tình hình và nguyên nhân cụ thể từng trường hợp đã phát
sinh tài sản thừa thiếu; về công nợ dây dưa khó đòi phải trình bày từng sự việc
đã xảy ra cho hội đồng xử lý tài sản tổn thất địa phương xét.
Trong lúc chờ
đợi ban hành một chế độ giải quyết tài sản tổn thất đầy đủ hơn, liên Bộ tạm thời
quy định chế độ giải quyết các trường hợp tổn thất:
Giải quyết
tài sản thừa thiếu nhất thiết không được lấy tổng số thừa trừ tổng số thiếu để
tìm ra chênh lệch tăng hoặc giảm để đề nghị Hội đồng xử lý giải quyết.
Về biện pháp
giải quyết sẽ áp dụng các nguyên tắc:
- Đối với tài
sản thiếu do chủ quan gây nên phải truy nguyên trách nhiệm cá nhân và tập thể,
bắt bồi thường ghi vào tài khoản phải thu (tài khoản 101) để thu hồi dần.
- Đối với tài
sản thiếu do khách quan gây nên được Hội đồng xử lý địa phương duyệt y sẽ cho
ghi vào lỗ (tiểu khoản 190,2)
- Đối với tài
sản thừa do điều kiện khách quan như điều kiện vật lý hóa học hay không ai thừa
nhận sau khi Hội đồng xử lý địa phương xét thì hạch toán số chênh lệch thừa vào
lãi và nộp vào ngân sách (tiểu khoản 190,2). Số chênh lệch tài sản thừa này đơn
vị thương nghiệp được tính vào hàng hóa dự trữ tồn kho để Ngân hàng tính đảm bảo
cung cấp mà cho vay nộp ngân sách.
- Đối với tài
sản thừa thiếu do hạch toán kế toán nhầm lẫn hoặc không hợp lý mà vẫn cứ ghi
trên sổ sách mãi thì nay phải kiểm tra lại và điều chỉnh sổ sách rồi báo cáo
cho Hội đồng xử lý các cấp biết.
Trong việc giải
quyết tài sản thừa và tài sản thiếu nếu trong Hội đồng địa phương không nhất
trí thì phải báo cáo lên Hội đồng trung ương xét mới được hạch toán vào lỗ lãi.
- Đối với
công nợ dây dưa khó đòi gồm các khoản tạm ứng thu mua nông sản, thực phẩm, tạm ứng
cho cán bộ, công nhân viên, các khoản phải thu, phải trả thì phải đối chiếu từng
trường hợp, kết hợp với cuộc vận động 3 thu dưới sự lãnh đạo của chính quyền
các cấp để thu hồi về.
- Đối với khoản
tạm ứng, tạm vay của cá nhân phải giải quyết kiên quyết và dứt khoát để thu hồi
về.
Những trường
hợp không thể đòi được như khách nợ đã chết, đã mất tích hoặc không còn khả
năng để trả nợ thì phải được chính quyền địa phương xác nhận và duyệt cụ thể mới
hạch toán vào lỗ.
VI. VỀ CẤP VỐN VÀ THU HỒI VỐN HÀNG HÓA Ứ ĐỌNG
Hiện nay hàng
hóa ứ đọng của ngành nội thương còn nhiều đã gây khó khăn cho hoạt động kinh
doanh và quản lý tài chính của ngành nội thương.
Số vốn hàng
hóa ứ đọng năm 1963 của ngành nội thương đã được Nhà nước cấp vốn 100%. Năm
1964 Bộ Nội thương và các đơn vị phụ thuộc Bộ đã có kế hoạch tiêu thụ hàng hóa ứ
đọng đến 31-12-1964. Đối với số hàng hóa ứ đọng còn lại đến 31-12-1964, được
Nhà nước cấp vốn 100%, Bộ Nội thương phải có kế hoạch tiêu thụ để đưa các loại
hàng hóa này vào mức dự trữ lưu chuyển bình thường cho kế hoạch năm 1965, đẩy mạnh
bán ra và trên cơ sở ấy lập kế hoạch nộp lãi và vốn hàng hóa ứ đọng đã giải
phóng cho ngân sách 100%. Bộ Nội thương phải tổng hợp số vốn mà Nhà nước đã cấp
cho toàn ngành nội thương phân biệt loại vốn đã được cấp để dự trữ hàng hóa lưu
chuyển bình thường và loại vốn hàng hóa ứ đọng được cấp 100%; Bộ Nội thương phải
mở sổ theo dõi loại hàng hóa và vốn ứ đọng này và giải quyết đến đâu phải nộp
hoàn vốn lại cho ngân sách trung ương ngay. Về việc quyết định cho hủy hàng hóa
hoặc hạ giá hàng ứ đọng chỉ thị số 105-TTg ngày 22-10-1963 đã quy định thẩm quyền
giải quyết của các Hội đồng trung ương và địa phương.
Liên Bộ lưu ý
rằng: Hội đồng ở khu, thành phố, tỉnh có quyền quyết định cho hủy bỏ tới
20.000đ và hạ giá tới 10.000đ ở một cơ sở, có nghĩa là ở một đơn vị nội thương
đã hạch toán kinh tế, Hội đồng chỉ được giải quyết toàn bộ hàng hóa ứ đọng một
lần với trị giá hủy bỏ và hạ giá nói trên.
Hội đồng ở
trung ương có quyền quyết định cho hủy bỏ tới 100.000đ và hạ giá tới 50.000đ ở
một cơ sở có nghĩa là ở một đơn vị nội thương đã hạch toán kinh tế, Hội đồng chỉ
được giải quyết toàn bộ hàng hóa ứ đọng một lần với trị giá hủy bỏ
và hạ giá nói trên.
Hàng tháng,
các đơn vị nội thương và tài chính phải báo cáo một lần về Bộ Nội thương và Bộ
Tài chính tình hình giải quyết hàng hóa ứ đọng và tình hình nộp ngân sách trung
ương.
Liên Bộ đề
nghị các Ủy ban hành chính tỉnh, thành, khu, các Chi nhánh Ngân hàng, các Sở,
Ty Tài chính, Thương nghiệp cần nghiên cứu kỹ thông tư này, mở hội nghị liên
ngành phổ biến tận cơ sở để chấp hành được tốt, giải quyết ngay những vấn đề
còn mắc mứu từ trước đến nay để thúc đẩy hoạt động thương nghiệp phát triển tốt
hơn, tăng cường tích lũy cho Nhà nước, đảm bảo việc giám đốc bằng đồng tiền các
hoạt động thương nghiệp được chặt chẽ và thường xuyên hơn.
Thông tư này
chỉ áp dụng đối với ngành nội thương, còn các ngành khác phải có ý kiến của
ngành chủ quản, Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước thỏa thuận và hướng dẫn thi
hành.
K.T.
TỔNG GIÁM ĐỐC NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC
PHÓ TỔNG GIÁM ĐỐC
Trần Dương
|
K.T.
BỘ TRƯỞNG BỘ NỘI THƯƠNG
THỨ TRƯỞNG
Nguyễn Văn Đào
|
K.T.
BỘ TRƯỞNG BỘ TÀI CHÍNH
THỨ TRƯỞNG
Đào Thiện Thi
|