Thông tư 58-TB-LS4 năm 1956 về việc xét cấp tiền tuất cho gia đình liệt sĩ do Bộ Thương binh ban hành

Số hiệu 58-TB-LS4
Ngày ban hành 10/10/1956
Ngày có hiệu lực 25/10/1956
Loại văn bản Thông tư
Cơ quan ban hành Bộ Thương binh
Người ký Vũ Đình Tụng
Lĩnh vực Lao động - Tiền lương

BỘ THƯƠNG BINH
******

VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA 
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 58-TB-LS4

Hà Nội, ngày 10 tháng 10 năm 1956 

 

THÔNG TƯ

VỀ VIỆC XÉT CẤP TIỀN TUẤT CHO GIA ĐÌNH LIỆT SĨ

Thông tư này ấn định chi tiết thi hành Nghị định số 1060-TTg ngày 27-09-1956 của Thủ tướng phủ quy định về việc trợ cấp tiền tuất nói ở điều lệ ưu đãi gia đình liệt sĩ.

I. – Ý NGHĨA MỤC ĐÍCH

Cho tới nay chế độ trợ cấp tử tuất chưa thống nhất, chưa thi hành được đầy đủ ngành có, ngành không.

Để bổ khuyết các điểm đó và để thay thế cho các khoản tiền tuất cũ, Thủ tướng phủ đã quy định về việc trợ cấp tiền tuất ở Nghị định số 1060-TTg ngày 27-09-1956 nói trên nhằm mục đích:

1) Biểu lộ một cách thiết thực lòng biết ơn của Chính phủ và nhân dân đối với gia đình liệt sĩ.

2) Giúp đỡ gia đình liệt sĩ có thêm điều kiện làm ăn và ổn định đời sống.

3) Động viên gia đình liệt sĩ, quân nhân, cán bộ, hăng hái công tác và phấn đấu.

II. - ĐIỀU KIỆN HƯỞNG TIỀN TUẤT

1) Tất cả những gia đình có thân nhân được coi là liệt sĩ và được tỉnh đề nghị cấp Bằng Tổ quốc ghi công theo Thông tình hình số 47-TB-LS ngày 28-05-1956 của Bộ Thương binh, từ trước tới nay chưa được lĩnh một khoản trợ cấp tử tuất nào, đều được cấp khoản tiền tuất này.

2) Tiền tuất chỉ cấp một lần cho cả gia đình liệt sĩ do người thân nhân gần nhất đứng ra đề nghị và lĩnh. Người thân nhân gần nhất là vợ, chồng, nếu không có vợ, chồng hay vợ đã tái giá thì con của liệt sĩ đứng lĩnh. Nếu không có con thì cha mẹ được lĩnh. Nếu không còn cha mẹ thì em dưới 16 tuổi được lĩnh. Nếu không có em dưới 16 tuổi thì người nào có công nuôi liệt sĩ từ nhỏ đến lớn như con đẻ, hay người mà liệt sĩ có nhiệm vụ nuôi nấng, được lĩnh.

3) Đối với gia đình liệt sĩ miền Nam thì tạm hoãn việc xét cấp cho đến khi thống nhất toàn quốc. Riêng đối với gia đình liệt sĩ miền Nam tập kết ra Bắc thì ở địa phương nào, sẽ kê khai với Ủy ban Hành chính xã địa phương đó để đề nghị xét cấp tiền tuất.

4) Gia đình liệt sĩ Việt kiều hiện trú tại các nước có quan hệ ngoại giao với nước ta thì do cơ quan Đại sứ, Lãnh sự Việt Nam tại các nước đó xét và đề nghị về Bộ Thương binh xét cấp. Đối với các gia đình liệt sĩ Việt kiều hiện trú tại các nước chưa có quan hệ ngoại giao với nước ta, thì tạm hoãn việc xét cấp.

5) Gia đình liệt sĩ ngoại kiều trú tại miền Bắc nước ta cũng được xét cấp tiền tuất.

III. – NGUYÊN TẮC CẤP TIỀN TUẤT

1) Gia đình có bao nhiêu liệt sĩ được cấp tiền tuất bấy nhiêu lần. Mỗi lần nhiều hay ít tùy theo thâm niên và cấp bậc của liệt sĩ, từ 3 tháng đến 12 tháng sinh hoạt phí hay lương bổng kể cả các khoản phụ cấp tính thành tiền theo tiêu chuẩn lương bổng hay sinh hoạt phí khi xét cấp tiền tuất.

Liệt sĩ đã tòng ngũ hay thoát ly công tác dưới ba năm thì gia đình được cấp 3 tháng sinh hoạt phí hay lương bổng của liệt sĩ. Trên 3 năm thì cứ thêm nửa năm, gia đình được cấp thêm nửa tháng sinh hoạt phí hay lương bổng. Những tháng thừa nếu dưới ba tháng thì không tính, từ ba tháng trở lên, cũng coi như 6 tháng, được cấp thêm nửa tháng sinh hoạt phí hay lương bổng, cho đến mức tối đa là 12 tháng.

2) Đối với những gia đình liệt sĩ không biết rõ chức vụ, thâm niên cách mạng của liệt sĩ, thì liệt sĩ là cán bộ cấp nào tiền tuất sẽ tính theo sinh hoạt phí hay lương bổng bậc thấp nhất của cấp đó mà cấp ba tháng. Trường hợp không biết cán bộ cấp nào thì tính theo mức khởi điểm của thang lương hành chính hay sinh hoạt phí quân đội hiện nay.

Riêng đối với liệt sĩ lúc sống tham gia công tác bán thoán ly, không hưởng sinh hoạt phí hay lương bổng thì gia đình được cấp khoản tiền tuất là năm vạn đồng (50.000đ).

3) Những gia đình liệt sĩ đã lĩnh một trong những khoản trợ cấp sau đây đều coi là đã lĩnh tiền tuất và không được xét cấp nữa:

- Trợ cấp tiền tuất theo quyết định số 100-QĐ-LB-C2 ngày 19-03-1952 của Tổng Cục Hậu cần Bộ Quốc phòng, đối với quân nhân mất khi tại ngũ.

- Trợ cấp tiền tuất theo Thông tư số 27-TT-LB-VFV ngày 24 tháng 11-1951, của Liên Bộ Nội vụ, Tài chính, thi hành cho công chức bị chết trong khi làm nhiệm vụ.

- Trợ cấp theo Nghị định Liên Bộ Nội vụ Lao động số 111 ngày 11-11-1955, thi hành đối với công nhân bị chết vì tai nạn Lao động.

- Trợ cấp theo Nghị định số 703-TTG ngày 29-02-1956 của Thủ tướng Phủ cho công nhân viên chết vì tai nạn lao động.

Các gia đình liệt sĩ đã được cấp số tiền tuất của Bộ Thương binh mà định xuất tính theo giá sinh hoạt năm 1947-1948 là 60đ, 90đ tài chính, nay đều coi như chưa lĩnh và được hưởng khoản tiền tuất nói trong thông tư này.

Những gia đình liệt sĩ Dân, Chính, Đảng trước đây tuy có được đoàn thể úy lao một số tiền nhỏ, không nhất định, cũng coi là chưa lĩnh tiền tuất và đều được xét cấp.

4) Đối với cán bộ công nhân viên, công chức chết vì tai nạn lao động sau ngày 29-02-1956, nhưng được công nhận là liệt sĩ, gia đình được hưởng khoản trợ cấp theo Nghị định số 703-TTG ngày 29-02-1956 của Thủ tướng Phủ.

[...]