Thông tư 4-TBXH/TC-1976 hướng dẫn thi hành Quyết định 284-CP-1974 về chính sách đối với xí nghiệp sản xuất của thương binh do Bộ Thương binh và xã hội ban hành

Số hiệu 4-TBXH/TC
Ngày ban hành 17/04/1976
Ngày có hiệu lực 02/05/1976
Loại văn bản Thông tư
Cơ quan ban hành Bộ Tài chính,Bộ Thương binh và Xã hội
Người ký Lê Chân Phương,Trịnh Văn Bính
Lĩnh vực Doanh nghiệp,Văn hóa - Xã hội

BỘ TÀI CHÍNH
BỘ THƯƠNG BINH VÀ XÃ HỘI
******

VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 4-TBXH/TC

Hà Nội, ngày 17 tháng 04 năm 1976 

 

THÔNG TƯ

HƯỚNG DẪN THI HÀNH QUYẾT ĐỊNH SỐ 284-CP NGÀY 23-12-1974 CỦA HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ VỀ CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI XÍ NGHIỆP SẢN XUẤT CỦA THƯƠNG BINH

Hội đồng Chính phủ đã ra quyết định số 284-CP ngày 23-12-1974 về chính sách đối với xí nghiệp sản xuất của thương bình.

Liện Bộ Thương binh và xã hội – Tài chính hướng dẫn thi hành quyết định của Hội đồng Chính phủ như sau.

I. TÍNH CHẤT, NHIỆM VỤ, TỔ CHỨC QUẢN LÝ XÍ NGHIỆP

1. Về tính chất và nhiệm vụ xí nghiệp.

Theo quyết định của Hội đồng Chính phủ, xí nghiệp sản xuất của thương binh là một tổ chức kinh tế đặc biệt, được thành lập để thu nhận và sắp xếp công việc làm cho những thương binh, bệnh binh không chuyển về địa phương hoặc không tuyển vào làm việc trong các cơ quan, xí nghiệp Nhà nước.

Vì vậy, xí nghiệp sản xuất của thương binh có nhiệm vụ:

- Thu nhận thương binh, bệnh binh, sắp xếp việc làm phù hợp với thương tật và sức khoẻ của anh chị em, tạo điều kiện để anh chị em đem khả năng lao động còn lại tiếp tục đóng góp cho xã hội và làm tròn nhiệm vụ của mình trong cương vị mới.

- Tổ chức tốt việc sản xuất kinh doanh để duy trì và phát triển sản xuất, nhanh chóng tiến tới tự mình giải quyết được đời sống của thương binh, bệnh binh làm việc tại xí nghiệp.

- Tổ chức tốt đời sống vật chất và tinh thần (ăn, ở, học tập chính trị, văn hoá, vui chơi, giải trí...) cho mọi thành viên của xí nghiệp.

2. Về đối tượng thu nhận.

Đối tượng thương binh, bệnh binh mà xí nghiệp có trách nhiệm thu nhận là những thương binh, bệnh binh ở các trại, thường do thương tật và sức khoẻ không chuyển về địa phương hoặc không tuyển vào làm việc trong các cơ quan, xí nghiệp Nhà nước được, bao gồm: thương binh hạng 4, hạng 5, bệnh binh mất sức lao động tương đương; một số thương binh hạng thương tật thấp hơn nhưng có những vết thương đặc biệt (thần kinh sọ não...); một số thương binh thương tật nặng (hạng 6, hạng 7...) còn có thể làm việc được nếu được sắp xếp công việc phù hợp và được trang bị công cụ lao động thích hợp.

Ngoài các đối tượng trên đây, xí nghiệp sản xuất của thương binh có thể thu nhận một số thương binh thương tật nhẹ nhưng không về địa phương được vì không có cơ sở, không có gia đình ở địa phương.

Ngoài đối tượng thương binh, bệnh binh, các Sở, Ty thương binh và xã hội phải nghiên cứu nhu cầu về công nhận, viên chức Nhà nước cần cử đến hướng dẫn, giúp đỡ xí nghiệp sản xuất của thương binh mà đề nghị với Ủy ban hành chính tỉnh xét duyệt cho số biên chế này, điều động những cán bộ cần thiết đến giúp đỡ cho các xí nghiệp trong một thời gian.

Các Sở, Ty thương binh và xã hội cầng nghiên cứu và ký hợp đồng thu nhận một số người không phải là thương binh, bệnh binh để là những công việc kỹ thuật, nghiệp vụ, những công việc nặng nhọc của xí nghiệp, nhưng tỷ lệ không được quá 30% tổng số biên chế của xí nghiệp.

Danh sách những người mà xí nghiệp thu nhận vào làm việc (thương binh, bệnh binh, cán bộ, công nhân được cử đến giúp đỡ xí nghiệp, những người không phải là thương binh, bệnh binh được xí nghiệp thu nhận làm những công việc kỹ thuật hoặc những công việc nặng nhọc mà thương binh, bệnh binh không có hoặc chưa có điều kiện làm được) đều phải do Sở, hoặc Ty thương binh và xã hội xét duyệt.

3. Về tổ chức và quản lý xí nghiệp.

a) Bộ máy quản lý của xí nghiệp.

Theo quyết định của Hội đồng Chính phủ: “Xí nghiệp sản xuất của thương binh do thương binh, bệnh binh tự quản lý”, nhưng để điều hành công việc của xí nghiệp phải có Ban quản lý xí nghiệp. Ban quản lý xí nghiệp do thương binh, bệnh binh bầu ra gồm từ 3 đến 5 người trong đó có 1 Chủ nhiệm, 1 hoặc 2 Phó chủ nhiệm; mỗi nhiệm kỳ của Ban quản lý là 2 năm. Sau khi được bầu, Ban quản lý phải được Ủy ban hành chính thành phố, tỉnh xét duyệt mới được chính thức hoạt động.

Thời gian đầu khi mới thành lập xí nghiệp, Ban quản lý sẽ do Ủy ban hành chính thành phố, tỉnh chỉ định theo đề nghị của Sở, Ty thương binh và xã hội.

Cần chọn những thương binh có phẩm chất đạo đức tốt và có năng lực để đưa vào Ban quản lý và chú trọng bồi dưỡng, đào tạo để anh chị em đảm đương tốt nhiệm vụ được giao.

Tùy tình hình và quy mô của xí nghiệp, có thể tổ chức các tổ sản xuất và những cán bộ giúp việc về mặt chuyện môn nghiệp vụ như: kỹ thuật, kế hoạch tài vụ, cung tiêu, y tế...không nhất thiết tổ chức rập khuôn như tổ chức phân xưởng và thành lập ban, phòng. Bộ máy của xí nghiệp phải gọn, nhẹ, giảm đến mức thấp nhất số người gián tiếp sản xuất và chú trọng khâu quản lý kinh tế, kỹ thuật để đảm bảo cho xí nghiệp hoạt động tốt và có hiệu lực.

b) Sự lãnh đạo của địa phương đối với xí nghiệp.

Theo quyết định của Hội đồng Chính phủ, xí nghiệp sản xuất của thương binh ở địa phương nào đều đặt dưới sự lãnh đạo về mọi mặt của Ủy ban hành chính thành phố, tỉnh địa phương đó.

Với chức năng trên, Ủy ban hành chính thành phố, tỉnh thông qua các cơ quan chuyên môn thuộc quyền (như đã ghi trong quyết định của Hội đồng Chính phủ) để lãnh đạo xí nghiệp và quyết định những vấn đề chủ yếu sau đây:

- Việc thành lập và phát triển các xí nghiệp sản xuất của thương binh;

- Việc cấp vốn xây dựng cơ bản, vốn lưu động ban đầu và trợ cấp khó khăn cho xí nghiệp;

[...]