BỘ TÀI CHÍNH
BỘ THƯƠNG BINH VÀ XÃ HỘI
******
|
VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG
HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số: 4-TBXH/TC
|
Hà Nội, ngày 17
tháng 04 năm 1976
|
THÔNG TƯ
HƯỚNG
DẪN THI HÀNH QUYẾT ĐỊNH SỐ 284-CP NGÀY 23-12-1974 CỦA HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ VỀ
CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI XÍ NGHIỆP SẢN XUẤT CỦA THƯƠNG BINH
Hội đồng Chính phủ đã ra quyết định số 284-CP ngày 23-12-1974
về chính sách đối với xí nghiệp sản xuất của thương bình.
Liện Bộ Thương binh và xã hội – Tài chính hướng dẫn thi hành
quyết định của Hội đồng Chính phủ như sau.
I. TÍNH CHẤT, NHIỆM VỤ, TỔ CHỨC QUẢN LÝ XÍ
NGHIỆP
1. Về tính chất và nhiệm vụ xí nghiệp.
Theo quyết định của Hội đồng Chính phủ, xí nghiệp sản xuất của
thương binh là một tổ chức kinh tế đặc biệt, được thành lập để thu nhận và sắp
xếp công việc làm cho những thương binh, bệnh binh không chuyển về địa phương
hoặc không tuyển vào làm việc trong các cơ quan, xí nghiệp Nhà nước.
Vì vậy, xí nghiệp sản xuất của thương binh có nhiệm vụ:
- Thu nhận thương binh, bệnh binh, sắp xếp việc làm phù hợp với
thương tật và sức khoẻ của anh chị em, tạo điều kiện để anh chị em đem khả năng
lao động còn lại tiếp tục đóng góp cho xã hội và làm tròn nhiệm vụ của mình
trong cương vị mới.
- Tổ chức tốt việc sản xuất kinh doanh để duy trì và phát triển
sản xuất, nhanh chóng tiến tới tự mình giải quyết được đời sống của thương
binh, bệnh binh làm việc tại xí nghiệp.
- Tổ chức tốt đời sống vật chất và tinh thần (ăn, ở, học tập
chính trị, văn hoá, vui chơi, giải trí...) cho mọi thành viên của xí nghiệp.
2. Về đối tượng thu nhận.
Đối tượng thương binh, bệnh binh mà xí nghiệp có trách nhiệm
thu nhận là những thương binh, bệnh binh ở các trại, thường do thương tật và sức
khoẻ không chuyển về địa phương hoặc không tuyển vào làm việc trong các cơ
quan, xí nghiệp Nhà nước được, bao gồm: thương binh hạng 4, hạng 5, bệnh binh mất
sức lao động tương đương; một số thương binh hạng thương tật thấp hơn nhưng có
những vết thương đặc biệt (thần kinh sọ não...); một số thương binh thương tật
nặng (hạng 6, hạng 7...) còn có thể làm việc được nếu được sắp xếp công việc
phù hợp và được trang bị công cụ lao động thích hợp.
Ngoài các đối tượng trên đây, xí nghiệp sản xuất của thương
binh có thể thu nhận một số thương binh thương tật nhẹ nhưng không về địa
phương được vì không có cơ sở, không có gia đình ở địa phương.
Ngoài đối tượng thương binh, bệnh binh, các Sở, Ty thương binh
và xã hội phải nghiên cứu nhu cầu về công nhận, viên chức Nhà nước cần cử đến
hướng dẫn, giúp đỡ xí nghiệp sản xuất của thương binh mà đề nghị với Ủy ban
hành chính tỉnh xét duyệt cho số biên chế này, điều động những cán bộ cần thiết
đến giúp đỡ cho các xí nghiệp trong một thời gian.
Các Sở, Ty thương binh và xã hội cầng nghiên cứu và ký hợp đồng
thu nhận một số người không phải là thương binh, bệnh binh để là những công việc
kỹ thuật, nghiệp vụ, những công việc nặng nhọc của xí nghiệp, nhưng tỷ lệ không
được quá 30% tổng số biên chế của xí nghiệp.
Danh sách những người mà xí nghiệp thu nhận vào làm việc
(thương binh, bệnh binh, cán bộ, công nhân được cử đến giúp đỡ xí nghiệp, những
người không phải là thương binh, bệnh binh được xí nghiệp thu nhận làm những
công việc kỹ thuật hoặc những công việc nặng nhọc mà thương binh, bệnh binh không
có hoặc chưa có điều kiện làm được) đều phải do Sở, hoặc Ty thương binh và xã hội
xét duyệt.
3. Về tổ chức và quản lý xí nghiệp.
a) Bộ máy quản lý của xí nghiệp.
Theo quyết định của Hội đồng Chính phủ: “Xí nghiệp sản xuất của
thương binh do thương binh, bệnh binh tự quản lý”, nhưng để điều hành công việc
của xí nghiệp phải có Ban quản lý xí nghiệp. Ban quản lý xí nghiệp do thương
binh, bệnh binh bầu ra gồm từ 3 đến 5 người trong đó có 1 Chủ nhiệm, 1 hoặc 2
Phó chủ nhiệm; mỗi nhiệm kỳ của Ban quản lý là 2 năm. Sau khi được bầu, Ban quản
lý phải được Ủy ban hành chính thành phố, tỉnh xét duyệt mới được chính thức hoạt
động.
Thời gian đầu khi mới thành lập xí nghiệp, Ban quản lý sẽ do Ủy
ban hành chính thành phố, tỉnh chỉ định theo đề nghị của Sở, Ty thương binh và
xã hội.
Cần chọn những thương binh có phẩm chất đạo đức tốt và có năng
lực để đưa vào Ban quản lý và chú trọng bồi dưỡng, đào tạo để anh chị em đảm
đương tốt nhiệm vụ được giao.
Tùy tình hình và quy mô của xí nghiệp, có thể tổ chức các tổ sản
xuất và những cán bộ giúp việc về mặt chuyện môn nghiệp vụ như: kỹ thuật, kế hoạch
tài vụ, cung tiêu, y tế...không nhất thiết tổ chức rập khuôn như tổ chức phân
xưởng và thành lập ban, phòng. Bộ máy của xí nghiệp phải gọn, nhẹ, giảm đến mức
thấp nhất số người gián tiếp sản xuất và chú trọng khâu quản lý kinh tế, kỹ thuật
để đảm bảo cho xí nghiệp hoạt động tốt và có hiệu lực.
b) Sự lãnh đạo của địa phương đối với xí nghiệp.
Theo quyết định của Hội đồng Chính phủ, xí nghiệp sản xuất của
thương binh ở địa phương nào đều đặt dưới sự lãnh đạo về mọi mặt của Ủy ban
hành chính thành phố, tỉnh địa phương đó.
Với chức năng trên, Ủy ban hành chính thành phố, tỉnh thông
qua các cơ quan chuyên môn thuộc quyền (như đã ghi trong quyết định của Hội đồng
Chính phủ) để lãnh đạo xí nghiệp và quyết định những vấn đề chủ yếu sau đây:
- Việc thành lập và phát triển các xí nghiệp sản xuất của
thương binh;
- Việc cấp vốn xây dựng cơ bản, vốn lưu động ban đầu và trợ cấp
khó khăn cho xí nghiệp;
- Việc giao kế hoạch và chỉ tiêu sản xuất, cung cấp vật tư và
tiêu thụ sản phẩm;
- Việc dành ngành nghề và những mặt hàng thích hợp cho thương
binh, bệnh binh sản xuất;
- Việc cử cán bộ, công nhân Nhà nước đến giúp việc xí nghiệp về
quản lý kỹ thuật, quản lý sản xuất,v.v...
Sở, Ty thương binh và xã hội là cơ quan chủ quản, trực tiếp
giúp Ủy ban hành chính thành phố, tỉnh quản lý các xí nghiệp sản xuất của
thương binh, có nhiệm vụ phối hợp với các ngành có liên quan: Ủy ban Kế hoạch
Nhà nước thành phố, tỉnh, Sở, Ty công nghiệp, Liên hiệp hợp tác xã thủ công
nghiệp, Sở, Ty thương nghiệp, Sở, Ty tài chính, Sở, Ty lao động, Sở, Ty y tế...để
chỉ đạo và hướng dẫn các xí nghiệp sản xuất của thương binh hoạt động, đồng thời
chịu trách nhiệm trước Ủy ban hành chính thành phố, tỉnh và Bộ Thương binh và
xã hội.
II. CHÍNH SÁCH, CHẾ ĐỘ ĐỐI VỚI XÍ NGHIỆP VÀ
THƯƠNG BINH, BỆNH BINH
Để tạo điều kiện cho xí nghiệp sản xuất của thương binh hoạt động,
Nhà nước đã quy định những chính sách và chế độ cụ thể.
Dưới đây, liên Bộ nói rõ thêm một số điểm như sau:
1. Chế độ học nghề và đài thọ sinh hoạt phí cho thương
binh, bệnh binh.
Để tạo điều kiện cho thương binh, bệnh binh sản xuất được tốt,
Hội đồng Chính phủ đã quy định việc dạy nghề cho thương binh, bệnh binh bằng
các hình thức: gửi đi học nghề ở các trường đào tạo sẵn có của Nhà nước, ngành
thương binh và xã hội tổ chức việc dạy nghề cho thương binh, bệnh binh trong
các trường lớp riêng hoặc trong các xí nghiệp sản xuất của thương binh.
Thương binh, bệnh binh học nghề trong các trường đào tạo nghề nghiệp
của Nhà nước được hưởng chế độ như quân nhân có 5 năm công tác trong quân đội
trở lên chuyển đi đào tạo (hướng dẫn trong Thông tư số 12-LĐ/TT ngày 20-11-1974
của Bộ Lao động), thương binh, bệnh binh học nghề do ngành thương binh và xã hội
phụ trách việc đào tạo được hưởng sinh hoạt phí và một số chế độ khác như khi
còn ở các trại, trường thương binh.
Muốn được hưởng các chế độ trên đây, thương binh phải thực sự
học nghề, thực sự tham gia sản xuất trong xí nghiệp, những thời gian tự ý bỏ học
hoặc không tham gia lao động sản xuất trong xí nghiệp thì không được cấp sinh
hoạt phí. Các xí nghiệp sản xuất của thương binh phải quản lý số ngày học tập,
ngày công lao động của thương binh để thực hiện đúng chế độ.
Bộ Thương binh và xã hội sẽ có quy định riêng về thời gian học
nghề tại xí nghiệp và thời gian đài thọ sinh hoạt phí tối đa theo ngành nghề để
Ủy ban hành chính địa phương căn cứ vào đó mà áp dụng đối với từng xí nghiệp,
nhưng tối đa không quá 3 năm.
2. Chế độ đối với thương binh, bệnh binh khi xí nghiệp mới
đi vào sản xuất.
Trong thời gian mới đi vào sản xuất, nếu xí nghiệp sản xuất của
thương binh chưa thể lấy thu bù chi được thì Nhà nước tiếp tục cho hưởng sinh
hoạt phí của thương binh, bệnh binh như khi còn ở trại, trường thương binh
trong thời gian tối đa không quá 3 năm.
Căn cứ vào thời gian tối đa đó, Ủy ban hành chính thành phố, tỉnh
quyết định thời gian cho hưởng sinh hoạt phí của thương binh, bệnh binh cho từng
xí nghiệp ở địa phương. Hết thời gian này, thương binh, bệnh binh sẽ thôi không
lĩnh sinh hoạt phí do Nhà nước cấp mà hưởng thụ theo lao động do xí nghiệp trả.
3. Chế độ trợ cấp cho xí nghiệp khi gặp khó khăn trong sản
xuất.
Xí nghiệp thương binh phải phấn đấu tăng năng suất lao động,
nâng cao thu nhập và phân phối, thu nhập một cách hợp lý vừa đảm bảo giải quyết
đời sống của thương binh, bệnh binh, vừa tích lũy để mở rộng sản xuất.
Khi gặp khó khăn trong sản xuất, thu nhập thấp, xí nghiệp phải
sử dụng một phần lợi nhuận của mình để giải quyết việc trả công lao động cho
thương binh, bệnh binh, nhưng khi đã tận dụng hết khả năng của xí nghiệp rồi mà
vẫn chưa giải quyết được thì đề nghị lên Ủy ban hành chính thành phố, tỉnh xét
trợ cấp.
Điều kiện để được trợ cấp như sau: sau khi trừ chi phí sản xuất
và khấu hao cơ bản mà toàn bộ thu nhập của xí nghiệp tính bình quân một thương
binh, bệnh binh không đạt được 30đ một tháng (kể cả tiền trợ cấp thương tật và
trợ cấp phục viện) thì xí nghiệp đó được xét trợ cấp thêm, do ngân sách địa
phương đài thọ.
Số tiền trợ cấp thêm này nhiều hay ít tùy theo mức độ khó khăn
của từng xí nghiệp, nhưng phải đảm bảo giữ đựơc mức thu nhập bình quân của
thương binh, bệnh binh là 30 đồng để ổn định đời sống cho anh chị em và duy trì
sản xuất.
Thời gian để tính trợ cấp cho xí nghiệp tối đa là 3 tháng.
Trong thời gian đó, xí nghiệp phải phấn đấu tăng năng suất lao động, cải tiến tổ
chức sản xuất, cải tiến quản lý bảo đảm bù đắp chi phí sản xuất và khấu hao cơ
bản, đồng thời bảo đảm tăng mức thu nhập của thương binh, bệnh binh.
Việc trợ cấp do Sở, Ty thương binh và xã hội xem xét, bàn bạc
thống nhất với Sở, Ty tài chính, lập dự toán trình Ủy ban hành chính thành phố,
tỉnh quyết định.
4. Vấn đề phân phối thu nhập.
a) Thời kỳ thương binh, bệnh binh còn hưởng sinh hoạt phí.
Trong thời gian thương binh, bệnh binh đang học nghề mà có làm
ra sản phẩm và thời gian xí nghiệp mới đi và sản xuất mà thương binh, bệnh binh
còn được đài thọ sinh hoạt phí thì theo quy định của Hội đồng Chính phủ, xí
nghiệp sản xuất của thương binh được trích ra một phần thu nhập (tối đa không
quá 20% thu nhập của xí nghiệp sau khi đã trừ chu phí sản xuất, khấu hao cơ bản
và trích cho phúc lợi tập thể, nếu có) để khen thưởng cho thương binh, bệnh
binh và các người khác trong xí nghiệp có thành tích trong học tập và sản xuất.
Như vậy, không phải xí nghiệp nào cũng đều áp dụng mức tối đa, mà phải tùy theo
thu nhập và mức tăng năng suất lao động của từng loại xí nghiệp mà định mức
trích ra cho thích hợp. Số tiền thưởng cho mỗi người trong trường hợp xí nghiệp
có thu nhập cao cũng không được vượt quá một phần ba (1/3) lương hoặc sinh hoạt
phí hàng tháng của người được thưởng.
b) Thời ký xí nghiệp tự túc hoàn toàn.
Khi thương binh, bệnh binh đã hết thời gian hưởng sinh hoạt
phí thì sẽ hưởng thụ theo lao động. Trên cơ sở thu nhập của xí nghiệp mà quyết
định việc phân phối trong nội bộ xí nghiệp sao cho thoả đáng, hợp lý, vừa đảm bảo
được đời sống cho thương binh, bệnh binh không ngừng nâng lên, vừa có tích lũy
để mở rộng sản xuất.
Việc lập các quỹ tích lũy, quỹ khấu hao, quỹ phúc lợi tập thể
và tỷ lệ bỏ vào các quỹ này sẽ được hướng dẫn cụ thể trong điều lệ mẫu về tổ chức
và hoạt động của các xí nghiệp sản xuất của thương binh và những văn bản khác.
5. Các chế độ khác của thương binh, bệnh binh và những người
làm việc trong xí nghiệp.
a) Thương binh, bệnh binh làm việc tại xí nghiệp được hưởng:
- Trợ cấp thương tật theo mức về địa phương (đối với thương
binh) và trợ cấp phục viên theo quyết định số 178-CP ngày 20-07-2974 của Hội đồng
Chính phủ, kể từ ngày thôi lĩnh sinh hoạt phí như khi ở trại, trường.
- Các chế độ về cung cấp (lương thực, thực phẩm, vải , đường...)
như những công nhân, viên chức làm những công việc tương đương, theo Thông tư số
38-CP ngày 03-03-1969 của Hội đồng Chính phủ và công văn số 855-NT.KD ngày
03-04-1972 của Bộ Nội thương.
- Khi ốm đau, nếu còn hưởng sinh hoạt phí thì thực hiện chế độ
như thương binh, bệnh binh ở trại, trường, nếu xí nghiệp đi vào tự túc hoàn
toàn thì thực hiện chế độ như thương binh, bệnh binh về địa phương theo Thông
tư số 19-TT/LB ngày 19-03-1962 và Thông tư số 05-TT/LB ngày 07-02-1975 của liên
Bộ Y tế - Nội vụ - Tài chính.
b) Đối với những người khác làm việc trong xí nghiệp:
- Những cán bộ, công nhân được cử đến hướng dẫn, giúp đỡ xí
nghiệp thì hưởng lương và các quyền lợi khác theo các chính sách, chế độ của
Nhà nước ban hành đối với công nhân, viên chức Nhà nước và do Sở, Ty thương
binh và xã hội đài thọ.
- Những người không phải là công nhân viên chức thì tiền lương
sẽ do xí nghiệp và những người này thoả thuận với nhau bằng hợp đồng và do xí
nghiệp đài thọ. Về mặt cung cấp lương thực, thực phẩm, vải, đường...những người
này được hưởng chế độ như công nhân, viên chức làm những ngành nghề tương đương
theo Thông tư số 38-CP ngày 03-03-1969 của Hội đồng Chính phủ.
6. Trách nhiệm và nghĩa vụ của xí nghiệp và của thương
binh, bệnh binh.
a) Xí nghiệp sản xuất của thương binh có nghĩa vụ phấn
đấu hoàn thành kế hoạch và chi tiêu sản xuất được giao với chất lượng tốt và chấp
hành đúng chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước về sản xuất, kinh
doanh cũng như những nguyên tắc, chế độ, thể lệ về quản lý tài chính mà Nhà nước
quy định cho xí nghiệp.
Xí nghiệp phải phấn đấu tăng năng suất lao động để nâng cao
không ngừng đời sống của thương binh, bệnh binh và những người khác làm việc tại
xí nghiệp.
Xí nghiệp phải quản lý chặt chẽ tài sản, vốn liếng của Nhà nước
đầu tư cho xí nghiệp và sản phẩm do xí nghiệp sản xuất ra, giáo dục mọi người
có tinh thần làm chủ các tài sản, làm chủ xí nghiệp, tuyệt đối không được phân
tán chia nhau các tài sản, nguyên vật liệu hoặc dùng vào mục đích khác. Xí nghiệp
phải theo đúng chế độ định kỳ kiểm kê tài sản và báo cáo đầy đủ lên trên.
b) Thương binh, bệnh binh có trách nhiệm và nghĩa vụ như
sau:
- Tích cực học tập nghề nghiệp và lao động sản xuất, trên cơ sở
lao động sản xuất mà tự giải quyết đời sống của mình và góp phần xây dựng xí
nghiệp.
- Chấp hành nghiêm chỉnh nội quy và kỷ luật lao động do xí
nghiệp đề ra, chống thái độ chây lười lao động, tự do vô tổ chức, vô kỹ luật.
- Nâng cao tinh thần làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, quý trong
và bảo vệ tài sản của Nhà nước và của xí nghiệp, chống mọi hành động xâm phạm
tài sản của Nhà nước và của xí nghiệp.
Những thương binh, bệnh binh có thành tích trong học tập, lao
động thì được xét khen thưởng thích đáng. Những người không chịu lao động, có
hành động tự do vô kỷ luật, xâm phạm đến lợi ích của xí nghiệp thì tùy lỗi nặng,
nhẹ mà thi hành kỷ luật một cách kịp thời: khiển trách, cảnh cáo, bắt phải bồi
thường thiệt hai cho đến khai trừ ra khỏi xí nghiệp. Trường hợp nghiêm trọng, sẽ
xét tước danh hiệu, quyền lợi thương binh và truy tố trước pháp luật.
Việc khai trừ ra khỏi xí nghiệp sẽ do xí nghiệp đề nghị, Sở,
Ty thương binh và xã hội xem xét và quyết định.
III. NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC, CẤP VỐN CHO XÍ
NGHIỆP SẢN XUẤT CỦA THƯƠNG BINH
Căn cứ vào điểm 1, mục II của quyết định số 284-CP ngày
23-12-1974 của Hội đồng Chính phủ về cấp phát vốn, liên Bộ hướng dẫn cụ thể như
sau:
a) Vốn kiến thiết cơ bản:
Xí nghiệp sản xuất của thương binh được ngân sách Nhà nước cấp
vốn đầu tư xây dựng cơ bản ban đầu bao gồm:
- Xây dựng xưởng sản xuất, nhà ở cho thương binh, bệnh binh;
- Mua sắm các trang bị, thiết bị phục vụ sản xuất, phục vụ
sinh hoạt cần thiết của thương binh, bệnh binh;
- Sản xuất thử.
Hàng năm, Sở, Ty thương binh và xã hộ căn cứ chỉ tiêu, số lượng
thương binh, bệnh binh ra sản xuất do Chính phủ giao cho địa phương, theo sự hướng
dẫn của Bộ Thương binh và xã hội và Ủy ban Kế hoạch thành phố, tỉnh để lập kế
hoạch kiến thiết cơ bản các xí nghiệp sản xuất của thương binh, trình Ủy ban
hành chính thành phố, tỉnh xét duyệt và ghi vào kế hoạch của địa phương. Việc
xét duyệt nhiệm vụ thiết kế, dự toán và quyết toán công trình,v.v...đều do Ủy
ban hành chính thành phố, tỉnh quy định. Vốn đầu tư lấy ở vốn kiến thiết cơ bản
địa phương do Sở, Ty tài chính cấp và ngân hàng kiến thiết quản lý chi tiêu
theo nguyên tắc quản lý vốn kiến thiết cơ bản hiện hành.
b) Vốn lưu động của xí nghiệp:
Xí nghiệp sản xuất của thương binh được Nhà nước cấp vốn lưu động
ban đầu và được ngân hàng cho vay vốn bổ sung căn cứ vào nhu cầu cần thiết theo
chế độ hiện hành. Các Sở, Ty thương binh và xã hội phải xây dựng định mức vốn
lưu động cho từng xí nghiệp và làm kế hoạch, làm các thủ tục xin cấp vốn lưu động
cho xí nghiệp, trình Ủy ban hành chính thành phố, tỉnh xét quyết định. Sở, Ty
tài chính cấp phát. Về việc vay vốn ngân hàng, xí nghiệp trực tiếp với cơ quan
Ngân hàng Nhà nước có giao dịch với xí nghiệp.
c) Những khoản vốn khác:
- Ngân sách Nhà nước cấp kinh phí đào tạo nghề nghiệp cho
thương binh, bệnh binh (kể cả tiền chi phí cho giáo viên và tiền mua nguyên liệu
để học tập...).
Ngoài ra, ngân sách Nhà nước còn tùy theo tình hình cụ thể từng
xí nghiệp mà cấp kinh phí cho xí nghiệp sản xuất của thương binh để trang trải
những khoản chi khác như:
- Trả sinh hoạt phí và chi về các chế độ trợ cấp cho thương
binh, bệnh binh trong thời gian học nghề, sản xuất thử và thời gian xí nghiệp mới
đi và sản xuất chưa thể lấy thu bù chi được;
- Trả lương và chi về các chế độ cho cán bộ, công nhân của Nhà
nước làm việc ở xí nghiệp.
- Chi về trợ cấp khó khăn trong sản xuất cho xí nghiệp.
Hàng năm, Sở, Ty thương binh và xã hội lập dự trù các khoản
chi tiêu trên đây gửi Sở, Ty tài chính để trình Ủy ban hành chính thành phố, tỉnh
xét duyệt (kinh phí sự nghiệp của địa phương). Sở, Ty tài chính cấp phát và quản
lý chi tiêu theo các chế độ, thể lệ hiện hành.
Việc tổ chức sản xuất cho thương binh, bệnh binh là vấn đề mới
và khó. Muốn làm tốt, Ủy ban hành chính địa phương cần quán triệt tinh thần và
nội dung quyết định số 284-CP của Hội đồng Chính phủ, có chủ trương và biện
pháp đúng đắn để thực hiện.
Phải xác định trách nhiệm một cách cụ thể cho các ngành có
liên quan, đưa việc này vào chi tiêu kế hoạch Nhà nước ở địa phương và huy động
các ngành phối hợp cùng với Sở, Ty thương binh và xã hội giúp đỡ xí nghiệp
thương binh hoạt động. Mặt khác, cần quan tâm đúng mức đến việc chấn chỉnh, kiện
toàn các phòng sản xuất, các bộ môn giúp việc của Sở, Ty thương binh và xã hội
về quản lý xí nghiệp để Sở, Ty thương binh và xã hội đủ sức đảm đương tốt nhiệm
vụ của mình.
Trong quá trình thi hành quyết định số 284-CP ngày 23-12-1974
của Hội đồng Chính phủ và Thông tư liên Bộ ngày có gì khó khăn mắc mứu, các địa
phương kịp thời báo cáo về Bộ Thương binh và xã hội và Bộ Tài chính để hai Bộ
nghiên cứu giải quyết.
KT. BỘ TRƯỞNG BỘ
TÀI CHÍNH
THỨ TRƯỞNG
Trịnh Văn Bính
|
KT. BỘ TRƯỞNG
BỘ THƯƠNG BINH VÀ
XÃ HỘI
THỨ TRƯỞNG
Nguyễn Kiện
|