PHỦ
THỦ TƯỚNG
******
|
VIỆT
NAM
DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
131-TTg
|
Hà
Nội, ngày 04 tháng 04 năm 1957
|
THÔNG TƯ
QUY ĐỊNH TẠM THỜI VỀ VẤN ĐỀ PHÂN BIỆT MỘT SỐ CHI PHÍ TRONG KẾ
HOẠCH THU CHI TÀI VỤ CỦA XÍ NGHIỆP QUỐC DOANH NĂM 1957
Để tăng cường việc quản lý theo
kế hoạch của các xí nghiệp quốc doanh, đồng thời khuyến khích sản xuất, đẩy mạnh
kiến thiết, tiết kiệm vốn, nay tạm thời quy định như sau việc phân biệt một số
chi phí trong kế hoạch thu chi tài vụ của xí nghiệp quốc doanh năm 1957.
I – QUY ĐỊNH
VỀ DỰ TOÁN NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI VIỆC CẤP PHÁT KIẾN THIẾT CƠ BẢN
1. – Khối lượng công tác
kiến thiết cơ bản gồm khối lượng công tác kiến thiết cơ bản trong năm kế hoạch
và khối lượng công tác kiến thiết cơ bản thuộc năm trước phải hoàn thành nhưng
chưa làm xong (cụ thể xem bản thể lệ lập kế hoạch kinh tế quốc dân).
2. - Nguồn vốn kiến thiết
cơ bản gồm:
a) Số cấp phát của dự toán Nhà
nước.
b) Vốn thừa của kiến thiết cơ bản,
trong đó gồm có: thiết bị, vật liệu, tiền mặt và số vốn khác chờ thanh toán (phần
sử dụng được).
c) Vốn khác.
3. – Phạm vi sử dụng vốn
kiến thiết cơ bản như sau:
a) Dùng để hoàn thành khối lượng
công tác kiến thiết cơ bản.
b) Dùng để dự trù vật liệu và
thiết bị cho các công trình kiến thiết năm sau.
Định mức về vật liệu và thiết bị
dự trù cho công trình kiến thiết cơ bản năm sau sẽ ghi và chi theo quy định như
sau: đối với ngành công nghiệp thì định mức thiết bị dự trù cho kiến thiết cơ bản
năm sau có thể độ 30% giá trị số thiết bị cần dùng trong năm kế hoạch. Về định
mức vật liệu dự trù có thể độ 20 đến 30% giá trị khối lượng công tác xây lắp
trong năm kế hoạch.
Định mức thiết bị và vật liệu dự
trù cho kiến thiết cơ bản năm sau của các ngành không phải là công nghiệp phải
thấp hơn tỷ lệ quy định trên. Trường hợp là dự trù đặc biệt hoặc dự trù quá định
mức thì sau khi được Thủ tướng phủ duyệt y, sẽ ghi vào khoản riêng để chi.
4. - Số tiền dự toán Nhà
nước cấp cho kiến thiết cơ bản sẽ tính theo công thức sau đây:
Số tiền dự toán Nhà nước cấp cho
kiến thiết cơ bản = số vốn cần thiết “để hoàn thành khối lượng công tác kiến
thiết cơ bản” + số vốn cần thiết “để dự trù thiết bị và vật liệu cho kiến thiết
cơ bản năm sau” – “vốn thừa của kiến thiết cơ bản” – “vốn khác”.
Các Bộ chủ quản xí nghiệp phải dựa
theo con số kiểm tra về khối lượng công tác kiến thiết cơ bản và con số kiểm
tra về cấp phát kiến thiết cơ bản của Chính phủ giao cho mà phổ biến xuống dưới
và dựa vào đó để lập kế hoạch kiến thiết cơ bản và kế hoạch tài vụ kiến thiết
cơ bản theo từng cấp. Các Bộ chủ quản xí nghiệp cần chỉ đạo các đơn vị tích cực
động viên nguồn vốn nội bộ (vốn thừa), khai thác khả năng tiềm tàng về giảm giá
thành công trình, mở rộng khối lượng công tác kiến thiết cơ bản, bố trí hợp lý
khoản chi về vật liệu và thiết bị dự trù cho công trình kiến thiết cơ bản năm
sau.
II – QUY ĐỊNH
VỀ DỰ TOÁN NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI VIỆC CẤP PHÁT VỐN LƯU ĐỘNG
1. – Đối với các xí nghiệp
quốc doanh công nghiệp, lâm nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải, bưu điện,
dự toán Nhà nước phải cấp 100% số vốn lưu động định mức trong năm kế hoạch đã
được duyệt y cần thiết cho sản xuất và hoạt động nghiệp vụ tương đối bình thường.
Số vốn cần thiết có tính chất thời
vụ và số vốn cần thiết khi luân chuyển tạm bị trở ngại thì xí nghiệp được đề
nghị vay ngắn hạn ở ngân hàng quốc gia để giải quyết, không được ghi vào vốn
lưu động định mức để xin dự toán Nhà nước cấp phát.
2. – Đối với ngành thương
nghiệp quốc doanh, do việc luân chuyển vốn tương đối nhanh, nên đối với số vốn
lưu động định mức cần thiết trong năm kế hoạch đã được duyệt y phải căn cứ vào
tình hình cụ thể của tài chính Nhà nước và vốn tín dụng của ngân hàng để xác định
tỷ lệ do dự toán Nhà nước cấp phát và tiền vay ngân hàng. Nói chung, dự toán
Nhà nước cấp 30%, ngân hàng quốc gia cho vay 70%. Lợi tức về tiền cho vay sẽ
ghi vào kế hoạch phí tổn lưu thông hàng hóa.
Đối với các Tổng Công ty xuất nhập
khẩu, là những tổ chức kinh doanh nghiệp vụ đại lý, số vốn tạm ứng trước, cần
thiết trong kỳ kế toán, sẽ đề nghị vay ngắn hạn của ngân hàng quốc gia giải quyết;
thể thức cho vay và trả tiền sẽ do Bộ Thương nghiệp và ngân hàng quốc gia quy định
cụ thể.
3. - Về vốn lưu động định
mức cần thiết trong năm kế hoạch đã được duyệt y (bộ phận hàng qua kho) của các
tổ chức cung tiêu thuộc Bộ chủ quản xí nghiệp, cần căn cứ tình hình thực hiện hạch
toán kinh tế của tổ chức đó, mà định tỷ lệ do dự toán Nhà nước cấp phát, phần
còn lại do ngân hàng quốc gia cho vay. Tỷ lệ cấp phát và cho vay do Bộ Tài
chính căn cứ theo tình hình cụ thể của từng tổ chức để xác định riêng.
4. - Để thích ứng với sự
cần thiết cho việc thi công thường xuyên của các xí nghiệp xây lắp và để hạch
toán giá thành công trình được chính xác, các xí nghiệp xây lắp sẽ được dự toán
Nhà nước cấp cho số vốn lưu động định mức độ 10% của khối lượng công trình xây
lắp. Vốn lưu động của xí nghiệp xây lắp dùng để chuyển nhiên liệu, phụ tùng
linh tinh, vật rẻ tiền mau hỏng, những kiến trúc nhỏ tạm thời, ván ghép, giông
làm nhà… (Những kiến trúc tạm thời như nhà ở cho công nhân xí nghiệp xây lắp phải
do đơn vị cho thầu ghi vào kế hoạch kiến thiết cơ bản. Những khoản chi về vật
liệu chủ yếu và tiền lương thì do đơn vị cho thầu lấy trong khoản cấp phát kiến
thiết cơ bản của mình để tạm ứng giải quyết).
Xí nghiệp xây lắp dùng vốn lưu động
để mua nhiên liệu, phụ tùng linh tinh… dùng cho việc luân chuyển, không được
ghi cả một lần vào khoản giá thành công trình, mà phải phân bổ đều vào giá
thành các công trình theo từng kỳ một để thu hồi.
Để tránh tình trạng lãng phí và ứ
đọng vốn của Nhà nước, tất cả các xí nghiệp xây lắp không có công tác xây lắp
thường xuyên và chưa thành tổ chức cố định thì tạm thời chưa được lĩnh số vốn
lưu động để dùng; toàn bộ số vốn lưu động cần thiết sẽ do đơn vị cho thầu ứng
trước để giải quyết.
5. – Số vốn lưu động định
mức của các xí nghiệp kể trên đã được Nhà nước duyệt y, ngoài phần quy định vay
của ngân hàng ra, trước hết phải lấy số vốn tự có của các xí nghiệp để dùng,
sau đó nếu còn thừa thì phải ghi vào số nộp cho dự toán Nhà nước, nếu còn thiếu
sẽ ghi vào số cấp phát của dự toán Nhà nước.
III – QUY ĐỊNH
VỀ DỰ TOÁN NHÀ NƯỚC CẤP LỢI NHUẬN CHO CÁC CÔNG TRÌNH XÂY LẮP
Để khuyến khích các đơn vị kiến
thiết tự làm và các xí nghiệp xây lắp, thực hiện từng bước chế độ hướng dẫn,
hoàn thành kế hoạch, hạ thấp giá thành, các đơn vị kiến thiết tự làm và các xí
nghiệp xây lắp được ghi thêm 2,5% tổng số chi tiêu trực tiếp và gián tiếp, theo
kế hoạch của công trình xây lắp, để làm lợi nhuận cho kế hoạch.
Khi lập kế hoạch khối lượng công
tác kiến thiết cơ bản và kế hoạch thu chi tài vụ kiến thiết cơ bản, các đơn vị
thuộc Bộ chủ quản xí nghiệp phải ghi khoản lợi nhuận đó vào kế hoạch.
Khi định giá công trình thực tế
của các đơn vị kiến thiết tự làm và của xí nghiệp xây lắp thấp hơn định giá của
kế hoạch quy định thì phần hạ thấp đó được coi như lợi nhuận vượt kế hoạch.
IV – QUY ĐỊNH
VỀ CHI PHÍ VỀ NHỮNG BIỆN PHÁP TỔ CHỨC KỸ THUẬT
Để đảm bảo hoàn thành và hoàn
thành vượt mức các nhiệm vụ kế hoạch Nhà nước, các xí nghiệp quốc doanh phải
tích cực phổ biến những kinh nghiệm tiên tiến, cải tiến thiết bị kỹ thuật, cải
tiến phương pháp kỹ thuật sản xuất, cải tiến tổ chức sản xuất và tích cực áp dụng
những biện pháp khác về kỹ thuật và tổ chức.
1. - Nội dung chính của
những biện pháp tổ chức kỹ thuật gồm:
a) Biện pháp cải tiến chất lượng
sản phẩm.
b) Biện pháp cải tiến tổ chức
lao động và cải tiến động tác nghiệp vụ sản xuất.
c) Biện pháp cải tiến trình tự kỹ
thuật sản xuất.
d) Biện pháp thi hành kiểm tra kỹ
thuật, giảm bớt những thiệt hại về hàng bị hỏng.
đ) Biện pháp cải tiến quản lý kỹ
thuật, giảm bớt sự tiêu hao nguyên vật liệu.
e) Biện pháp làm tăng số năm sử
dụng các thiết bị máy móc và nâng mức sử dụng thiết bị máy móc.
g) Biện pháp cải tiến chất lượng
của việc sửa chữa máy móc thiết bị và rút ngắn thời gian sửa chữa.
h) Biện pháp cải tiến việc bảo
quản kho tàng và vận chuyển ở trong kho xưởng.
i) Biện pháp bảo đảm an toàn về
mặt kỹ thuật và bảo hộ lao động.
k) Biện pháp tăng tốc độ luân
chuyển vốn, cải tiến việc quản lý kinh doanh và đẩy mạnh thi hành chế độ hạch
toán kinh tế.
2. – Được ghi để chi
tiêu, những biện pháp tổ chức kỹ thuật nói trên, nếu có thể trực tiếp tính được
hiệu quả kinh tế theo cả hai nguyên tắc sau đây:
a) Trong năm kế hoạch năm sau có
thể thu được kết quả kinh tế.
b) Số tiền thu nhiều hơn số chi
về biện pháp tổ chức kỹ thuật.
Trường hợp biện pháp tổ chức kỹ
thuật không trực tiếp tính được hiệu quả kinh tế, thì có thể không tính, nhưng
phải có lợi cho việc cải thiện điều kiện lao động hoặc thực tế có tác dụng làm
lợi cho việc tiết kiệm kinh tế quốc dân: trường hợp này cũng được ghi để chi
tiêu.
3. - Những chi phí về biện
pháp tổ chức kỹ thuật sẽ phân biệt theo tính chất chi tiêu khác như sau:
a) Những khoản chi phí làm tăng
thêm số lượng và giá trị tài sản cố định để nâng mức tự động hóa trong quá
trình sản xuất, để thay đổi trình tự kỹ thuật sản xuất, để làm thăng bằng mức sử
dụng thiết bị, thì khi lập kế hoạch, được ghi vào khoản riêng trong đó tiền cấp
phát mà dự toán Nhà nước đã quy định cho các Bộ. Sau khi được duyệt y, thì khoản
nào phải dùng cho khoản ấy.
b) Những khoản chi phí để thay đổi
tổ chức sản xuất và thiết bị kỹ thuật sản xuất như: tháo máy móc ra để lắp thêm
hoặc kiểm tra để sửa chữa lại nhiều trong phạm vi quy định sửa chữa lớn thì phải
ghi chi trong quý sửa chữa lớn.
c) Những khoản chi phí về những
biện pháp tổ chức kỹ thuật khác, không làm tăng tài sản cố định, thì phải ghi
vào phí tổn sản xuất phân bố từng kỳ một. Cách phân bố như sau:
- Nếu hiệu quả thu được trong
năm kế hoạch có thể bù cho những khoản chi trong năm hoặc nhiều hơn khoản chi
trong năm thì tính vào giá thành trong năm.
- Nếu hiệu quả thu được trong
năm kế hoạch ít hơn toàn bộ số chi trong năm, những hiệu quả thu được trong năm
thứ hai lại nhiều hơn toàn bộ số chi, thì được phân bố cho hai năm.
V – QUY ĐỊNH
VỀ CHI PHÍ CHẾ THỬ CÁC LOẠI SẢN PHẨM MỚI
Chi phí để chế thử sản phẩm mới
là những chi phí trong năm kế hoạch để làm những thứ sản phẩm mà trước đây xí
nghiệp chưa từng sản xuất.
1. - Những sản phẩm nào đủ
mấy điều kiện sau đây thì được coi làm sản phẩm mới:
a) Những sản phẩm mà xí nghiệp
chưa làm ra bao giờ.
b) Thiết kế mới.
c) Đã được Chính phủ hay Bộ chủ
quản xí nghiệp chuẩn y.
2. - Nội dung chi phí để
chế thử các loại sản phẩm mới như sau:
a) Chi phí để thiết kế những loại
sản phẩm mới và tiền mua những tài liệu kỹ thuật.
b) Những chi phí để đặt ra trình
tự sản xuất của những loại sản phẩm mới.
c) Chi phí để thiết kế và để đặt
ra trình tự sản xuất những công cụ dùng riêng cho các loại sản phẩm mới.
d) Chi phí để thí nghiệm những vật
liệu, bán thành phẩm, công cụ và thiết bị phụ thuộc dùng cho những loại sản phẩm
mới.
e) Tiền mua mẫu hàng định chế thử
và giá thành mẫu hàng chế thử.
g) Tiền mua sắm máy móc thiết bị
dùng cho các loại sản phẩm mới và chi phí để điều chỉnh và lắp các máy móc thiết
bị đã có.
h) Chi phí để giám định kỹ thuật
những loại sản phẩm mới và chi phí để kiểm nghiệm lại những vật liệu kỹ thuật
trước khi bước vào sản xuất hàng loạt.
i) Chênh lệch giữa giá thành sản
phẩm mới chế thử vượt quá giá thành sản phẩm sản xuất bình thường.
k) Tiền thưởng cho việc chế thử
những loại sản phẩm mới và những chi phí khác có liên quan trực tiếp tới việc
chế thử sản phẩm.
3. – Phương pháp ghi chi
những chi phí chế thử những loại sản phẩm mới như sau:
a) Khi chế thử sản phẩm mới phải
cố lợi dụng những thiết bị sẵn có; những máy móc thiết bị cần phải tăng thêm và
những công cụ thuộc phạm vi tài sản cố định mua thêm, thì khi lập kế hoạch được
ghi vào khoản riêng trong số cấp phát mà dự toán Nhà nước đã quy định cho các Bộ
chủ quản xí nghiệp; sau khi duyệt ý thì khoản nào phải dùng cho khoản ấy.
b) Chi phí thuộc giá bình thường
thì ghi chi trong kế hoạch giá thành của xí nghiệp.
c) Phần chi phí do giá thành chế
thử vượt quá giá thành bình thường và những thiệt hại do việc chế thử sản phẩm
mới gây ra, thì có thể ghi vào khoản lỗ lãi ngoài kinh doanh trong kế hoạch thu
chi tài vụ của xí nghiệp, hết năm căn cứ số thực tế ghi vào kết toán để thanh
toán.
VI – QUY ĐỊNH
VỀ CHI PHÍ TÀI SẢN CỐ ĐỊNH LINH TINH
1. – Vì sự cần thiết của sản xuất
và kinh doanh, các đơn vị xí nghiệp không có kiến thiết cơ bản cần mua sắm tài
sản cố định linh tinh hoặc cần làm những việc kiến thiết cơ bản linh tinh, thì
các Bộ chủ quản xí nghiệp có thể phân phối cho xí nghiệp một số tiền nhất định
trong số tiền mà dự toán Nhà nước đã quy định cấp phát cho Bộ (xí nghiệp không
phải lập kế hoạch kiến thiết cơ bản). Số tiền này ghi vào kế hoạch thu chi tài
vụ bằng khoản riêng; sau khi được duyệt thì khoản nào phải dùng cho khoản ấy.
2. – Các đơn vị kiến thiết và
các đơn vị xí nghiệp tiến hành việc xây dựng mới, khôi phục hoặc mở rộng xây dựng,
mỗi năm đều có nhiệm vụ kiến thiết cơ bản, nên khoản tiền mua sắm tài sản cố định
linh tinh hoặc chi về kiến thiết cơ bản linh tinh đều được ghi vào kế hoạch kiến
thiết cơ bản.
Sau khi bản quy định này đã ban
hành, các xí nghiệp không được lấy vốn lưu động để mua sắm tài sản cố định linh
tinh hoặc để chi về kiến thiết cơ bản linh tinh.
VII – QUY ĐỊNH
VỀ VIỆC PHÂN BIỆT TÀI SẢN CỐ ĐỊNH VỚI VẬT RẺ TIỀN MAU HỎNG
1. – Những công cụ, khí cụ… của
các xí nghiệp quốc doanh có đủ cả hai điều kiện dưới đây thì coi là tài sản cố
định:
a) Giá trị đơn vị từ 15 vạn đồng
trở lên.
b) Thời hạn sử dụng được trên một
năm.
Nếu không phù hợp với một trong
hai điều kiện đó thì coi là vật rẻ tiền mau hỏng.
2. - Để thích ứng với một số trường
hợp đặc biệt, sau khi được Bộ Tài chính thoả thuận, các Bộ chủ quản xí nghiệp
có thể để một số công cụ, khí cụ giá trị dưới 15 vạn đồng, ghi là tài sản cố định,
hoặc có thể để một số công cụ, khí cụ giá trị trên 15 vạn đồng ghi là vật rẻ tiền
mau hỏng.
VIII – QUY ĐỊNH
VỀ CHI PHÍ THỬ MÁY
1. - Tất cả những chi phí của
đơn vị xây dựng mới, đơn vị mở rộng hay đơn vị khôi phục cần cho việc thử máy
thuộc loại thiết bị lắp đặt bằng vốn kiến thiết cơ bản, dù là thử máy chạy
không hay là thử máy có sản xuất, đều nhất loạt ghi chi theo như quy định dưới
đây:
a) Những chi phí thử máy trước
khi kiểm nhận thì ghi vào kế hoạch kiến thiết cơ bản.
b) Những chi phí thử máy sau khi
kiểm nhận thì phân bố từng kỳ một vào giá thành sản phẩm.
Trước khi kiểm nhận nếu có những
sản phẩm, những hàng đang làm dở, những vật liệu dùng thừa vì thử máy, thì sau
khi kiểm nhận phải giao cho đơn vị sản xuất để làm vốn lưu động.
2. – Chi phí thử máy thuộc loại
những thiết bị sản xuất đang được sửa chữa lớn thì phải ghi chi trong khoản tiền
sửa chữa lớn.
3. – Chi phí thử máy về sửa chữa
nhỏ và sửa chữa trung bình trong sản xuất, thì phân bố vào giá thành sản phẩm
trong năm.
IX. – Căn
cứ theo những quy định có liên quan trên đây, con số kiểm tra cấp phát năm 1957
Nhà nước phổ biến cho các Bộ chủ quản xí nghiệp gồm những phần sau đây:
1. – Con số cấp phát cần thiết
cho khối lượng công tác kiến thiết cơ bản gồm có con số cấp phát cần thiết cho
kiến thiết cơ bản của xí nghiệp và con số cấp phát cần thiết cho kiến thiết cơ
bản của sự nghiệp.
2. – Con số cấp phát cần thiết để
dự trữ vật liệu và thiết bị cho công trình kiến thiết năm sau.
3. – Con số cấp phát cần thiết
cho chi phí về:
- Những biện pháp tổ chức kỹ thuật.
- Việc chế thử sản phẩm mới.
- Việc mua sắm tài sản cố định
linh tinh.
4. – Con số cấp phát kinh phí sự
nghiệp của đơn vị sự nghiệp thuộc các Bộ.
Con số kiểm tra cấp phát của Nhà
nước phổ biến cho các Bộ chủ quản xí nghiệp kể trên không bao gồm số vốn lưu động
cấp cho các xí nghiệp.
Con số cấp phát về vốn lưu động
cần thiết cho các xí nghiệp sẽ cấp riêng sau khi đã duyệt kế hoạch thu chi tài
vụ của các Bộ.
Bản quy định tạm thời về vấn đề
phân biệt một số chi phí trong kế hoạch thu chi tài vụ của xí nghiệp quốc doanh
năm 1957 phải là một trong những văn bản để chỉ đạo việc lập và chấp hành kế hoạch
kinh tế quốc dân, kế hoạch thu chi tài vụ của xí nghiệp và dự toán Nhà nước năm
1957. Vì vậy Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước, Bộ Tài chính, các Bộ chủ quản xí nghiệp
cần nghiên cứu kỹ và hướng dẫn các đơn vị thuộc ngành mình chấp hành cho đúng.
|
THỦ
TƯỚNG CHÍNH PHỦ
Phạm Văn Đồng
|