Thứ 2, Ngày 28/10/2024

Thông tư 13-LĐ-TT năm 1962 quy định nguyên tắc cấp phát, sử dụng và giữ gìn trang bị phòng hộ do Bộ Lao động ban hành

Số hiệu 13-LĐ-TT
Ngày ban hành 29/06/1962
Ngày có hiệu lực 14/07/1962
Loại văn bản Thông tư
Cơ quan ban hành Bộ Lao động
Người ký Nguyễn Đăng
Lĩnh vực Lao động - Tiền lương

BỘ LAO ĐỘNG
*******

Số : 13-LĐ-TT

VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

*******

Hà Nội, ngày 29 tháng 6 năm 1962

 

THÔNG TƯ

QUY ĐỊNH NGUYÊN TẮC CẤP PHÁT, SỬ DỤNG VÀ GIỮ GÌN TRANG BỊ PHÒNG HỘ

BỘ TRƯỞNG BỘ LAO ĐỘNG

Kính gửi:

- Các bộ, các Tổng cục quản lý sản xuất và xây dựng;
- Ủy ban hành chính các khu, thành, tỉnh;
- Các Sở, Ty, Phòng Lao động.

 

Trong mấy năm qua, do yêu cầu bảo vệ sức khỏe công nhân và bảo đảm an toàn trong sản xuất, các Bộ, các ngành đã căn cứ vào Thông tư số 18/LĐ/TT ngày 17/6/1958 và Thông tư số 04/LĐ-TT ngày 13/02/1961 của Bộ Lao động, mà quy định cụ thể chế độ trang bị phòng hộ cho từng ngành. Các xí nghiệp, công trường, lâm trường, nông trường cũng đã có những cố gắng trong việc cấp phát, sử dụng và nghiên cứu cải tiến một số loại dụng cụ phòng hộ cho thích hợp. Nhờ vậy, trang bị phòng hộ đã có tác dụng trong việc bảo vệ sức khỏe và bảo đảm an toàn lao động cho công nhân, phục vụ sản xuất phát triển.

Tuy vậy, trước yêu cầu phát triển nhanh chóng của các ngành kinh tế quốc dân trong giai đoạn công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, chế độ trang bị phòng hộ hiện nay còn nhiều nhược điểm và khuyết điểm như:

1. Nhận thức về mục đích, ý nghĩa và tác dụng của chế độ trang bị phòng hộ trong cán bộ cũng như công nhân chưa được đầy đủ. Có nơi, do nhận thức không đúng, nên chỉ chú trọng cấp phát trang bị phòng hộ mà coi nhẹ việc cải tiến, bổ sung thiết bị an toàn và các biện pháp để cải thiện điều kiện làm việc, hoặc cho rằng cấp phát quần áo, giày mũ cho công nhân cũng là góp phần cải thiện sinh hoạt, trong khi mức lương nói chung còn thấp.

Việc tuyên truyền, giáo dục ý thức sử dụng và giữ gìn trang bị phòng hộ trong quần chúng còn kém, thiếu những biện pháp cụ thể và thích hợp cho từng ngành.

2. Những nguyên tắc cấp phát, sử dụng và giữ gìn trang bị phòng hộ chưa được quy định cụ thể chưa áp dụng thống nhất trong tất cả các ngành, các cơ sở.

3. Trách nhiệm của các bộ phận công tác có liên quan đến việc dự trù kế hoạch, mua sắm, cấp phát, theo dõi việc sử dụng và giữ gìn dụng cụ phòng hộ chưa được quy định rõ ràng.

4. Chưa có một tổ chức chuyên nghiệp nghiên cứu quy cách phẩm chất dụng cụ phòng hộ thích hợp với điều kiện nước ta. Việc quản lý sản xuất, phân phối dụng cụ phòng hộ cũng chưa chặt chẽ.

Để bổ khuyết những thiếu sót nói trên và thi hành Chỉ thị số 32-TTg ngày 08/3/1962 của Thủ tướng Chính phủ, ngoài những biện pháp về mặt tổ chức nghiên cứu quy cách, mẫu mực, phẩm chất dụng cụ phòng hộ, cần phải tăng cường giáo dục, kiểm tra việc thực hiện những nguyên tắc cấp phát, sử dụng và giữ gìn trang bị phòng hộ trong công nhân, viên chức. Bộ Lao động ra thông tư này nhằm giải thích và hướng dẫn những nguyên tắc cấp phát, sử dụng và giữ gìn, đồng thời quy định trách nhiệm của các bộ phận công tác có liên quan đối với việc thi hành chế độ trang bị phòng hộ.

Yêu cầu chủ yếu của việc bảo đảm an toàn lao động, bảo vệ sức khỏe công nhân trong sản xuất là phải không ngừng cải tiến, bổ sung các thiết bị sản xuất, thiết bị an toàn, thiết bị an toàn và cải thiện điều kiện làm việc.

Tuy vậy, trong những trường hợp mà điều kiện sản xuất cũng như các thiết bị nói trên chưa bảo đảm đầy đủ thì phải có thêm dụng cụ phòng hộ. Do đó, dụng cụ phòng hộ chỉ là những phương tiện cần thiết làm tăng thêm điều kiện an toàn va bảo vệ sức khỏe công nhân trong khi các thiết bị an toàn chưa được giải quyết hết được. Có khi cùng một loại công việc như nhau nhưng điều kiện làm việc được cải tiến hoặc thiết bị bổ sung đầy đủ hơn, các nhân tố gây tai nạn và bệnh tật đã được khắc phục, thì lúc đó trang bị phòng hộ không cần thiết nữa.

Mặt khác, trong hoàn cảnh kinh tế của ta hiện nay, việc trang bị phòng hộ cũng còn phải căn cứ vào khả năng tài chính của Nhà nước mà giải quyết dần từ thấp đến cao, theo đà phát triển của kinh tế.

1. Điều kiện được trang bị.

Khi công nhân, viên chức làm việc trong một hay nhiều điều kiện sau đây thì được trang bị những dụng cụ phòng hộ cần thiết:

a) Làm việc trực tiếp trong những nơi có các chất độc, hơi độc, khí độc, hôi thối, bẩn thỉu… nhiễm vào người dễ gây ra tai nạn, phát sinh bệnh nghề nghiệp hoặc ảnh hưởng tới sức khỏe.

b) Làm việc ở một trong những điều kiện không bình thường như:

- Ánh sáng quá chói, có hại đến mắt, da;

- Có nhiều bụi quá tiêu chuẩn quy định;

- Nóng hoặc lạnh quá tiêu chuẩn quy định;

- Dưới hầm kín hay trong buồng kín thiếu không khí, khó thở;

- Lầy lội, nước bẩn ăn lở loét chân tay;

- Tiếp xúc với vật nhọn, sắc cạnh, cọ sát của vật nặng ráp có thể bị xay xát cơ thể;

- Tiếp xúc với vật bị đun, nung nóng, nước sôi, có thể làm cháy bỏng da thịt hoặc bị những mảnh kim loại, khoáng sản bắn vào người, vào mắt;

- Thường xuyên làm việc trong rừng rậm, leo núi, giẫm phai gai góc, dễ bị sên, vắt, rắn, rết cắn.

[...]