BỘ
LAO ĐỘNG
*******
Số
: 13-LĐ-TT
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
*******
Hà
Nội, ngày 29 tháng 6 năm 1962
|
THÔNG TƯ
QUY ĐỊNH NGUYÊN TẮC CẤP PHÁT, SỬ DỤNG VÀ GIỮ GÌN TRANG BỊ
PHÒNG HỘ
BỘ TRƯỞNG BỘ LAO ĐỘNG
Kính
gửi:
|
- Các bộ, các Tổng cục quản lý
sản xuất và xây dựng;
- Ủy ban hành chính các khu, thành, tỉnh;
- Các Sở, Ty, Phòng Lao động.
|
Trong mấy năm
qua, do yêu cầu bảo vệ sức khỏe công nhân và bảo đảm an toàn trong sản xuất,
các Bộ, các ngành đã căn cứ vào Thông tư số 18/LĐ/TT ngày 17/6/1958 và Thông tư
số 04/LĐ-TT ngày 13/02/1961 của Bộ Lao động, mà quy định cụ thể chế độ trang bị
phòng hộ cho từng ngành. Các xí nghiệp, công trường, lâm trường, nông trường
cũng đã có những cố gắng trong việc cấp phát, sử dụng và nghiên cứu cải tiến một
số loại dụng cụ phòng hộ cho thích hợp. Nhờ vậy, trang bị phòng hộ đã có tác dụng
trong việc bảo vệ sức khỏe và bảo đảm an toàn lao động cho công nhân, phục vụ sản
xuất phát triển.
Tuy vậy, trước
yêu cầu phát triển nhanh chóng của các ngành kinh tế quốc dân trong giai đoạn
công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, chế độ trang bị phòng hộ hiện nay còn nhiều
nhược điểm và khuyết điểm như:
1. Nhận
thức về mục đích, ý nghĩa và tác dụng của chế độ trang bị phòng hộ trong cán bộ
cũng như công nhân chưa được đầy đủ. Có nơi, do nhận thức không đúng, nên chỉ
chú trọng cấp phát trang bị phòng hộ mà coi nhẹ việc cải tiến, bổ sung thiết bị
an toàn và các biện pháp để cải thiện điều kiện làm việc, hoặc cho rằng cấp
phát quần áo, giày mũ cho công nhân cũng là góp phần cải thiện sinh hoạt, trong
khi mức lương nói chung còn thấp.
Việc tuyên truyền, giáo
dục ý thức sử dụng và giữ gìn trang bị phòng hộ trong quần chúng còn kém, thiếu
những biện pháp cụ thể và thích hợp cho từng ngành.
2. Những
nguyên tắc cấp phát, sử dụng và giữ gìn trang bị phòng hộ chưa được quy định cụ
thể chưa áp dụng thống nhất trong tất cả các ngành, các cơ sở.
3.
Trách nhiệm của các bộ phận công tác có liên quan đến việc dự trù kế hoạch, mua
sắm, cấp phát, theo dõi việc sử dụng và giữ gìn dụng cụ phòng hộ chưa được quy
định rõ ràng.
4.
Chưa có một tổ chức chuyên nghiệp nghiên cứu quy cách phẩm chất dụng cụ phòng hộ
thích hợp với điều kiện nước ta. Việc quản lý sản xuất, phân phối dụng cụ phòng
hộ cũng chưa chặt chẽ.
Để bổ khuyết
những thiếu sót nói trên và thi hành Chỉ thị số 32-TTg ngày 08/3/1962 của Thủ
tướng Chính phủ, ngoài những biện pháp về mặt tổ chức nghiên cứu quy cách, mẫu
mực, phẩm chất dụng cụ phòng hộ, cần phải tăng cường giáo dục, kiểm tra việc thực
hiện những nguyên tắc cấp phát, sử dụng và giữ gìn trang bị phòng hộ trong công
nhân, viên chức. Bộ Lao động ra thông tư này nhằm giải thích và hướng dẫn những
nguyên tắc cấp phát, sử dụng và giữ gìn, đồng thời quy định trách nhiệm của các
bộ phận công tác có liên quan đối với việc thi hành chế độ trang bị phòng hộ.
Yêu cầu chủ yếu
của việc bảo đảm an toàn lao động, bảo vệ sức khỏe công nhân trong sản xuất là
phải không ngừng cải tiến, bổ sung các thiết bị sản xuất, thiết bị an toàn, thiết
bị an toàn và cải thiện điều kiện làm việc.
Tuy vậy,
trong những trường hợp mà điều kiện sản xuất cũng như các thiết bị nói trên
chưa bảo đảm đầy đủ thì phải có thêm dụng cụ phòng hộ. Do đó, dụng cụ phòng hộ
chỉ là những phương tiện cần thiết làm tăng thêm điều kiện an toàn va bảo vệ sức
khỏe công nhân trong khi các thiết bị an toàn chưa được giải quyết hết được. Có
khi cùng một loại công việc như nhau nhưng điều kiện làm việc được cải tiến hoặc
thiết bị bổ sung đầy đủ hơn, các nhân tố gây tai nạn và bệnh tật đã được khắc
phục, thì lúc đó trang bị phòng hộ không cần thiết nữa.
Mặt khác,
trong hoàn cảnh kinh tế của ta hiện nay, việc trang bị phòng hộ cũng còn phải
căn cứ vào khả năng tài chính của Nhà nước mà giải quyết dần từ thấp đến cao,
theo đà phát triển của kinh tế.
1. Điều kiện
được trang bị.
Khi công
nhân, viên chức làm việc trong một hay nhiều điều kiện sau đây thì được trang bị
những dụng cụ phòng hộ cần thiết:
a) Làm việc
trực tiếp trong những nơi có các chất độc, hơi độc, khí độc, hôi thối, bẩn thỉu…
nhiễm vào người dễ gây ra tai nạn, phát sinh bệnh nghề nghiệp hoặc ảnh hưởng tới
sức khỏe.
b) Làm việc ở
một trong những điều kiện không bình thường như:
- Ánh sáng
quá chói, có hại đến mắt, da;
- Có nhiều bụi
quá tiêu chuẩn quy định;
- Nóng hoặc lạnh
quá tiêu chuẩn quy định;
- Dưới hầm
kín hay trong buồng kín thiếu không khí, khó thở;
- Lầy lội, nước
bẩn ăn lở loét chân tay;
- Tiếp xúc với
vật nhọn, sắc cạnh, cọ sát của vật nặng ráp có thể bị xay xát cơ thể;
- Tiếp xúc với
vật bị đun, nung nóng, nước sôi, có thể làm cháy bỏng da thịt hoặc bị những mảnh
kim loại, khoáng sản bắn vào người, vào mắt;
- Thường
xuyên làm việc trong rừng rậm, leo núi, giẫm phai gai góc, dễ bị sên, vắt, rắn,
rết cắn.
- Thường
xuyên phải lưu động ngoài trời, chịu ảnh hưởng của mưa, sương muối, vì công việc
không thể nghỉ để trú ẩn được.
c) Làm việc
trong những điều kiện nguy hiểm như:
- Tiếp xúc với
thiết bị có điện thế trên 36 vôn;
- Làm việc
trên cao;
- Lặn, làm việc
dưới nước.
2. Đối tượng
được trang bị phòng hộ
a) Công nhân,
viên chức khi làm việc ở một hay nhiều điều kiện nói trên, không phân biệt là
chính thức hay tạm tuyển, trong hay ngoài biên chế, lao động thuê mướn hay thợ
học nghề, lao động làm hợp đồng hay nhận khoán (trừ những người làm khoán tự
do, theo lối gia công, đơn vị sử dụng không trực tiếp chỉ đạo về kỹ thuật sản
xuất và quản lý nhân công) đều được đơn vị sử dụng trang bị những dụng cụ phòn
hộ quy định cho công việc mình làm.
b) Những nhân
viên kỹ thuật, nghiệp vụ, nhân viên kiểm tra, hướng dẫn công tác và cán bộ lãnh
đạo xí nghiệp khi tiếp xúc với công việc có một hay nhiều điều kiện nói trên
cũng được trang bị phòng hộ theo quy định cho từng tính chất công tác. Những dụng
cụ này chỉ dùng chung cho tổ hay phòng công tác, chứ không trang bị cho cá
nhân.
c) Sinh viên,
học sinh các trường Đại học, chuyên nghiệp, hoặc các trường phổ thông về thực tập
tại xí nghiệp, nếu công việc họ thực tập có một hay nhiều điều kiện nói trên
cũng được trang bị phòng hộ quy định cho công việc đó. Việc trang bị này do cơ
quan cử học sinh đi thực tập chịu trách nhiệm mua sắm.
Học sinh,
sinh viên hết thời hạn học tập ở trường được phân phối về xí nghiệp, công trường
tập sự thì xí nghiệp, công trường có trách nhiệm trang bị.
d) Đối với những
công việc không làm thường xuyên, nhưng khi làm, cần thiết phải có trang bị
phòng hộ, thì đơn vị được mua sắm một số để dự phòng cho đôi khi cần làm những
công việc đó.
e) Đối với những
công việc không gây nhiễm độc và nguy hiểm mà chỉ làm trong một thời gian ngắn,
sau đó lại đi làm việc khác, nếu chưa được trang bị đầy đủ cũng không xảy ra
tai nạn, thì không nhất thiết phải trang bị đầy đủ theo tiêu chuẩn quy định (ví
dụ: quần áo, mũ vải cho thợ sửa chữa máy, thợ rèn…).
Đối với những
công việc dễ nhiễm độc, nhiễm trùng hoặc nguy hiểm đến tính mệnh công nhân thì
mặc dù chỉ làm trong một thời gian rất ngắn, công nhân cũng phải được trang bị
đầy đủ dụng cụ phòng hộ theo tiêu chuẩn quy định (ví dụ: công nhân làm việc
trên cao, lặn làm việc dưới nước, trực tiếp với thiết bị điện…).
g) Đối với
dân công huy động theo nghĩa vụ, nói chung ít sử dụng vào những công việc dễ
gây nhiễm độc và nguy hiểm nên chế độ trang bị phòng hộ không áp dụng. Tuy vậy,
trong trường hợp cần thiết phải sử dụng dân công cùng làm việc với cán bộ, công
nhân, viên chức Nhà nước, mà công việc làm cần có trang bị phòng hộ, thì cơ
quan sử dụng dân công phải cho mượn những dụng cụ phòng hộ cần thiết cho công
việc đó.
1. Dụng cụ
phòng hộ là tài sản chung của Nhà nước, nhưng tùy theo yêu cầu của công việc phải
làm thường xuyên hay bất thường, tùy theo điều kiện làm việc và tính chất của mỗi
loại mà giao hẳn hoặc tạm thời cho cá nhân hay bộ phận sử dụng giữ gìn chu đáo.
2. Trước khi
giao cho công nhân sử dụng dụng cụ phòng hộ, công nhân cần được hướng dẫn thành
thạo cách thức sử dụng và giữ gìn những dụng cụ đó.
3. Cá nhân
hay bộ phận được trang bị phòng hộ đều bắt buộc phải sử dụng trong khi làm việc
và không được sử dụng trong khi làm việc riêng.
4. Dụng cụ
phòng hộ cấp phát cho công việc nào chỉ là dùng cho công việc ấy, nhất thiết
không thể dùng lẫn lộn những dụng cụ chỉ có một tác dụng nhất định (ví dụ:
không thể dùng ủng đi mưa vào việc cách điện, găng tay thường vào việc chống
át-xít…).
5. Mỗi loại dụng
cụ phòng hộ phải sản xuất theo quy cách, mẫu mực, phẩm chất đã được Nhà nước
quy định; các đơn vị sử dụng cần mua sắm đúng theo quy cách, mẫu mực, phẩm chất
đó. Cá nhân hay bộ phận được trang bị không được tự ý sửa chữa hoặc thay đổi.
6. Để đảm bảo
chất lượng của dụng cụ phòng hộ, nhất là những dụng cụ dùng vào việc cách điện,
đề phòng nhiễm độc, giây an toàn, phao an toàn, các đơn vị sử dụng cần kiểm
tra, nghiệm thử trước khi cấp phát cho công nhân, đồng thời định kỳ kiểm tra và
thử lại sau từng thời gian sử dụng.
Trước khi bắt
tay vào công việc, công nhân phải tự mình kiểm tra lại chất lượng của các dụng
cụ phòng hộ.
7. Mỗi đơn vị
cần có kho hoặc tủ đựng những dụng cụ phòng hộ. Nơi để phải cao ráo, sạch sẽ, bảo
đảm một nhiệt độ bình thường, tránh ẩm ướt, mối, chuột, và đề phòng han rỉ (nếu
dụng cụ có bộ phận bằng kim loại). Riêng một số trang bị thường dùng như quần
áo vải thường, khẩu trang, mũ, yếm, v.v... thì có thể giao hẳn cho cá nhân giữ
để tiện giặt rũ và bảo quản.
8. Những dụng
cụ phòng hộ mới rách hoặc hư hỏng nhẹ, cá nhân hay bộ phận sử dụng phải tự sửa
chữa lấy. Đơn vị sử dụng chịu trách nhiệm tổ chức, sửa chữa những dụng cụ phòng
hộ bị rách hoặc hư hỏng nặng, mà cá nhân hay bộ phận không có điều kiện sửa chữa.
9. Dụng cụ
phòng hộ và quần áo dùng để làm việc ở những chỗ dơ bẩn dễ gây nhiễm trùng, nhiễm
độc đối với cơ thể công nhân, phải định kỳ khử độc, khử trùng bằng phương pháp
sấy hoặc tẩy nấu ở nhiệt độ cần thiết, v.v…
10. Để mọi
người có ý thức sử dụng và giữ gìn dụng cụ phòng hộ, tránh lãng phí cho công quỹ,
mỗi đơn vị cần căn cứ vào những nguyên tắc đã quy định, tùy theo phẩm chất của
dụng cụ và tính chất công việc mà quy định thời hạn sử dụng cho từng loại dụng
cụ. Tuy vậy, nếu chưa hết hạn sử dụng mà dụng cụ phòng hộ bị mất mát, hư hỏng,
bất cứ lý do gì, đều được cấp phảt cái mới để làm việc.
Dụng cụ phòng
hộ khi đã hết hạn mà không còn dùng được nữa, công nhân sẽ đem đổ lấy thứ mới.
11. Trường hợp
làm mất hoặc hư hỏng dụng cụ phòng hộ mà không có lý do chính đáng, thì đơn vị
tùy theo lỗi nặng nhẹ mà xử trí bằng biện pháp hành chính, từ phê bình, cảnh
cáo đến bồi thường bằng tiền (áp dụng nguyên tắc bồi thường khi cán bộ, công
nhân, viên chức làm mất tiền hay đồ vật của Nhà nước, quy định tại văn bản số 1076/TN
ngày 14-3-1958 của Phủ Thủ tướng) theo giá trước khi mất hoặc hư hỏng. Việc xử
trí này do cấp phụ trách đơn vị quyết định với sự thỏa thuận của công đoàn cùng
cấp. Tùy theo số tiền bồi thường có ảnh hưởng tới sinh hoạt của công nhân nhiều
hay ít để trừ dần vào lương hàng tháng, nhưng mỗi lần không trừ quá 20% tiền
lương phụ cấp bản thân của người công nhân đó.
12. Để khuyến
khích những người có thành tích trong việc sử dụng và giữ gìn dụng cụ phòng hộ,
hàng năm xí nghiệp được trích một khoản tiền bằng 20% giá trị tiết kiệm được của
những dụng cụ phòng hộ đã được sử dụng lâu hơn thời gian quy định, để thưởng
cho những người có ý thức tiết kiệm, giữ gìn tốt trang bị đó. Tuy nhiên phải hết
sức chú ý đến đảm bảo an toàn, nghĩa là không phải vì tiết kiệm mà không sử dụng
trang bị phòng hộ trong khi làm việc.
Việc khen thưởng
này chỉ áp dụng đối với công nhân trực tiếp sản xuất, phải sử dụng trang bị
phòng hộ thường xuyên, đồng thời chỉ thực hiện đối với những trang bị có tính
toán được thời gian sử dụng rõ ràng như các loại quần áo, giầy, ủng…
13. Mỗi lần
thay đổi hoặc thuyên chuyển công việc tác tất cả các dụng cụ phòng hộ đã được cấp
phát đều phải trả lại đơn vị, trừ trường hợp được cấp phụ trách đơn vị đồng ý
cho mang đi để sử dụng vào công việc làm ở đơn vị mới.
14. Mỗi cá
nhân hoặc bộ phận được cấp phát trang bị phòng hộ phải có sổ (hoặc phiếu) ghi
rõ những dụng cụ phòng hộ được cấp phát hoặc thay đổi, để tiện theo dõi.
1. Căn cứ vào
những nguyên tắc và tiêu chuẩn chung quy định kèm theo thông tư này, các ngành
quản lý sản xuất, xây dựng, vận tải, kinh doanh và các cơ sở nghiên cứu, thí
nghiệm… sẽ quy định cụ thể chế độ trang bị phòng hộ áp dụng trong ngành, hoặc bổ
sung, sửa đổi những quy định trước cho phù hợp với nguyên tắc và tiêu chuẩn
chung.
Các bản quy định
này cần được Tổng Công đoàn hoặc Công đoàn ngành dọc tham gia ý kiến và Bộ Lao
động thỏa thuận mới ban hành, để tránh tình trạng không thống nhất, gây ra suy
tị giữa công nhân các ngành với nhau.
2. Đối với những
công việc mà trong bản tiêu chuẩn chung cũng như bản quy định riêng của từng
ngành chưa có, thì đơn vị (xí nghiệp, công trường…) căn cứ vào những nguyên tắc,
tiêu chuẩn chung và quy định riêng của ngành mình mà xây dựng chế độ trang bị
cho những công việc đó rồi báo cáo lên Bộ chủ quản duyệt y mới được thi hành.
3. Căn cứ vào
những nguyên tắc chung về cấp phát, sử dụng và giữ gìn trang bị phòng hộ mỗi
đơn vị sẽ xây dựng một nội quy cụ thể. Nội quy này phải được sự thỏa thuận của
công đoàn cùng cấp, rồi phổ biến cho công nhân, viên chức thực hiện.
4. Hàng năm,
khi lập kế hoạch sản xuất, kế hoạch bảo hộ lao động, các xí nghiệp, công trường…
phải có kế hoạch về trang bị phòng hộ. Kế hoạch này sau khi được duyệt phải gửi
tới các cơ quan Thương nghiệp theo thể thức sau đây:
- Đối với những
hàng sản xuất được ở trong nước, thì dự trù kế hoạch trang bị phòng hộ sẽ gửi
cho các Công ty Bách hóa, Công ty bông vải sợi ở địa phương.
- Đối với những
hàng phải mua của nước ngoài thì phải đề nghị lên Bộ chủ quản để xin ngoại tệ
và ký hợp đồng với cơ quan Ngoại thương (tại công văn số 885/LĐ-BH ngày
27-5-1961, Bộ Lao động đã hướng dẫn cụ thể vấn đề này).
5. Trách nhiệm
đối với việc lập và thực hiện kế hoạch trang bị phòng hộ trong mỗi đơn vị cơ sở
quy định cụ thể như sau:
- Cán bộ phụ
trách bảo hộ lao động căn cứ vào các quy định về trang bị phòng hộ đã được ban
hành và điều kiện sản xuất của đơn vị mà đề ra yêu cầu về trang bị hàng năm.
Sau khi kế hoạch trang bị đã được duyệt thì đôn đốc, theo dõi việc mua sắm, hướng
dẫn cách sử dụng, bảo quản, đồng thời tổ chức việc kiểm tra, nghiệm thử đối với
những dụng cụ đòi hỏi phải đảm bảo an toàn tuyệt đối như phao an toàn, dây an
toàn, mặt nạ, ủng, găng cách điện, v.v...
- Bộ phận kế hoạch
tài vụ căn cứ vào yêu cầu trang bị phòng hộ hàng năm (do cán bộ bảo hộ lao động
đề ra) mà lập thành dự trù kế hoạch khi lập kế hoạch sản xuất, kế hoạch bảo hộ
lao động hàng năm và trình lên cấp trên xét duyệt xin kinh phí.
- Bộ phận
cung ứng vật liệu căn cứ vào dự trụ kế hoạch trang bị phòng hộ đã được duyệt, tổ
chức việc mua sắm, bảo quản và cấp phát.
- Bộ phận y tế
phối hợp với bộ phận bảo hộ lao động, kiểm tra, hướng dẫn việc sử dụng, đồng thời
tổ chức việc khử độc, khử trùng định kỳ đối với các loại trang bị dơ bẩn, dễ
gây nhiễm trùng, nhiễm độc.
Những nguyên
tắc và tiêu chuẩn trang bị phòng hộ nói trong thông tư này được áp dụng trong
các xí nghiệp, công trường, nông trường, lâm trường. đơn vị sản xuất, các đơn vị
kinh doanh và sự nghiệp, các cơ sở thí nghiệm, bệnh viện, trường học… có công
nhân, viên chức làm các công việc có những điều kiện nói ở điểm I mục 2, không
phân biệt là cơ sở thuộc quốc doanh trung ương hay địa phương hoặc công tư hợp
doanh. Riêng đối với xí nghiệp hợp tác và hợp tác xã thủ công nghiệp sẽ căn cứ
vào quy định chung và khả năng của từng nơi mà áp dụng từng bước cho phù hợp với
tình hình sản xuất và khả năng của mỗi loại cơ sở.
Thông tư này
thay thế các Thông tư số 18/LĐ-TT ngày 17/6/1958 và Thông tư số 04/LĐ-TT ngày
13/02/1961, cùng các bản phụ lục kèm theo các thông tư đó.
Kèm theo
thông tư này có bản quy định tiêu chuẩn trang bị phòng hộ và bản hướng dẫn cách
vận dụng các tiêu chuẩn đó trong việc xây dựng chế độ trang bị phòng hộ ở từng
ngành, từng cơ sở.
Để việc thi
hành chế độ này có kết quả tốt, Bộ Lao động yêu cầu các cấp, các ngành và các
đơn vị, cơ sở tăng cường hơn nữa công tác tuyên truyền giáo dục ý thức sử dụng
trang bị phòng hộ trong quần chúng, tăng cường kiểm tra đôn đốc việc thực hiện
đồng thời thu thập kinh nghiệm và khó khăn, mắc mứu, phản ánh cho Bộ Lao động để
nghiên cứu bổ sung được đầy đủ và ngày càng thích hợp hơn.
|
K.T.
BỘ TRƯỞNG BỘ LAO ĐỘNG
THỨ TRƯỞNG
Nguyễn Đăng
|
BẢNG QUY ĐỊNH TIÊU CHUẨN TRANG BỊ PHÒNG HỘ
(Gồm dụng cụ phòng hộ, giầy, mũ và quần áo làm việc)
SỐ
THỨ TỰ
|
TÊN
TRANG BỊ PHÒNG HỘ
|
TIÊU
CHUẨN TRANG BỊ
(Điều
kiện làm việc và tính chất công tác cần đề phòng khi làm việc và một vài việc
điển hình)
|
|
A.
MŨ
|
|
1
|
Mũ vải
|
- Dầu mỡ, bụi,
chất bẩn bắnvào đầu, săn sóc phục vụ người bệnh, tiếp xúc với bệnh nhân, tử
thi… có thể gây nhiễm độc, nhiễm trùng, phụ nữ phải bao gọn tóc khi đứng máy,
như trực tiếp điều khiển, sửa chữa các loại máy cơ khí, điện, xây dựng; nhân
viên hóa nghiệm; công nhân làm vệ sinh thành phố, v.v...
|
2
|
Mũ cao su
|
- Điện giật
khi đụng đầu vào vật đang làm như hàn điện, trong những thùng bằng kim loại,
nồi hơi, v.v...
|
3
|
Mũ cứng (bằng
sắt, nhựa, hay mây, tre đan)
|
- Dụng cụ, nguyên
vật liệu hoặc vật rắn có thể rơi từ trên cao xuống khi công nhân đang làm việc
ở dưới, như đục choòng, bắn mìn phá đá, lắp máy, bắc giáo sắt trên công trường,
khai thác quặng, than ở hầm lò, đào giếng, v.v...
|
4
|
Mũ bịt tai
|
- Thường
xuyên làm việc ở những nơi giá lạnh, lưu động ở các miền rừng núi, rẻo cao,
ngoài biển khơi, khi rét dưới 10 độ C như làm trong phòng ướp lạnh; điều tra
rừng, tham do địa chất ở vùng cao, đốt đèn biển, v.v...
|
|
B.
KÍNH
|
|
5
|
Kính trắng
(kiểu đi mô-tô)
|
- Phơi kim
loại, mạt đá mài, mảnh đá, mùn cưa, bụi than, dung dịch hóa chất mạnh, tia lửa
điện… bắn vào mắt; hơi khói độc bay vào mắt như thợ tiện, khoan, rèn, phay
kim loại, điêu khiển máy cưa, máy bào gỗ; đập đá râm; thay cầu chì; rót
át-xít; nghiền bột làm que hàn; đục tường lắp thiết bị, v.v...
|
6
|
Kính luyện
kim màu thẫm
|
- Phải nhìn
vào ánh sáng quá chói, hại mắt như nhìn vào lò nấu kim loại (gang, đồng,
thép, v.v...), lò nấu thủy tinh, v.v...
|
7
|
Kính màu nhạt
(kính râm kiểu đi mô-tô)
|
- Phải thường
xuyên nhìn thẳng lên ánh sáng mặt trời hoặc nhìn thẳng ánh sáng chói bị lóa mắt,
như đốt lò nồi hơi; lái xe lửa; hàn hơi; điều khiển cầu trục tháp; móc cáp ở
công trường.
|
8
|
Kính hàn, mặt
nạ hàn
|
- Ngăn tia sáng
độc của hồ quang làm hại mắt khi hàn, như thợ và phụ hàn điện…
|
|
C. KHẨU TRANG, MẶT NẠ
|
|
9
|
Khẩu trang
|
- Nhiều bụi,
mùi hôi thối, chất dơ bẩn, có thể gây nhiễm trùng như tháo bao xi-măng, xúc
than, sang than xi, sản xuất bột chì, phân phối săng chì, dọn vệ sinh hố xí,
v.v...
|
10
|
Mặt nạ
phòng độc
|
- Làm việc ở
nơi có hơi, khí độc như sản xuất cờ-lo, át-xít mạnh (HCl, H2SO4,
HNO3…) chữa két săng, dầu, sơn xi, phun phoóc-môn, v.v...
Chú
thích:
Đối với những
nơi làm việc đặc biệt có nhiều khí, hơi độc không thể thở trực tiếp không khí
ở đó qua mặt nạ thường được, như cấp cứu hầm mỏ có hơi ngạt, sửa chữa trong
các thùng lớn chứa săng dầu (xi-téc) v.v... thì dùng mặt nạ có bình dưỡng khí
hoặc có ống dẫn không khí từ ngoài vào.
|
|
D.
ĐỆM VAI, VẢI CHOÀNG
|
|
11
|
Đệm vai
|
- Các vật nặng,
ráp, sắc cạnh làm xây sát vải khi khiêng, vác như khiêng vác sắt, gỗ tấm,
thùng đựng nguyên vật liệu, v.v...
|
12
|
Vải choàng
|
- Bụi bẩn nhiều
khi khuân vác hoặc đội như vác bao xi-măng, đội than v.v...
|
|
E.
GĂNG
|
|
13
|
Găng tay vải
(vải thường, bạt hay sợi)
|
- Tiếp xúc
với vật bị đốt hoặc đun nóng, ráp, sắc cạnh làm bỏng tay hay sây sát da tay hoặc
tiếp xúc với vật bẩn, hôi thối dính vào tay, có thể gây nhiễm trùng, nhiễm độc,
như nấu hắc ín, cạo rỉ sắt, khuân vác sắt, đốt lò, đúc, rót kim loại, nạo vét
cống, đổ thùng xí, v.v...
|
14
|
Găng tay
cao su
|
- Tiếp xúc với
các hóa chất độc, các chất bẩn làm lở loét da tay, như thí nghiệm hóa chất độc,
rót át-xít, dúng vật mạ vào bể mạ kền, nấu, tẩy, nhuộm vải, sợi, nạo da,
v.v...
|
15
|
Găng tay
cao su cách điện.
|
- Tiếp xúc
trực tiếp với bộ phận thiết bị dẫn điện có điện thế từ 250 vôn trở lên như
đóng, cắt cầu dao, thay cầu chì, v.v... hoặc đối với các thiết bị dẫn điện có
điện thết dưới 250 vôn nhưng ở trong những môi trường làm việc hoặc tính chất
công việc đặc biệt do cán bộ kỹ thuật phụ trách quyết định
|
16
|
Găng tay bằng
da
|
- Tiếp xúc
với tia lửa mạnh làm cháy da tay như hàn điện…, hoặc với thú rừng có móng nhọn,
sắc, có thể cắn cào xé rách da tay như công nhân bắt thú rừng v.v...
|
|
G.
DÂY LƯNG, YẾM
|
|
17
|
Dây an toàn
|
- Làm việc trên
cao hoặc những chỗ cheo leo cách mặt đất từ 3m trở lên. Leo núi, qua khe suối
sâu, xuống giếng sâu dưới 3m, như làm trên dàn giáo cao, leo núi đục lỗ mìn,
phá đá, hái quả trên cây cao, lên xuống khi đào giếng sâu, v.v...
|
18
|
Yếm vải
|
- Dầu mỏ, bụi
bẩn bắn vào người, áo quần ở phía ngực và bụng như thợ đứng máy dệt, đánh vôi
vửa, quét dọn ở nhà máy hoặc đường phố, v.v...
|
19
|
Yếm da
|
- Thanh gỗ,
mảnh kim loại, khoáng sản có thể bất thần thúc vào ngực và bụng, như: điều khiển
máy cưa đĩa, tiếp xúc với tia bức xạ của hồ quang, như hàn điện, đỡ sức cản của
không khí làm tức ngực như nhân viên bưu điện thường xuyên đi mô-tô, v.v...
|
20
|
Yếm cao su (hay ni-lông).
|
- Nước bẩn hoặc nước có hóa chất bắn ướt quần áo như nấu xà-phòng,
xeo giấy (thủ công), nấu, tẩy, nhuộm vải, sợi, lụa, v.v...
|
21
|
Đệm lót bụng
(bằng vải dầy hay may nhiều lớp)
|
- Phải tỳ bụng
vào dụng cụ đang chuyển động mạnh gây tức bụng như điều khiển máy khoan đá bằng
hơi ép, v.v...
|
|
H.
GIẦY, ỦNG
|
|
22
|
Giầy vải bạt
(đế cao su cứng hay đế da)
|
- Khi chân
phải tiếp xúc với nhiều vật nhọn, sắc cạnh, vật nung nóng là sây sát hoặc bỏng
chân, như thổi thủy tinh, đốt lửa nối hơi, hàn hơi, tán ri-vê bằng máy, tiện
khoan sắt thép, khiêng pa-nen, v.v...
|
23
|
Giầy vải
cao cổ, giầy đi rừng
|
- Leo núi,
xuyên rừng phải dẫm lên gai góc, hoặc có thể bị rắn, rết cắn như khảo sát địa
chất, điều tra rừng, chặt hạ gỗ, nứa, v.v...
|
24
|
Giày da lộn
cao cổ
|
- Tia lửa, nước
kim loại nóng chảy, kim loại nung đỏ bắn vào bàn chân làm cháy hoặc bỏng
chân, hoặc mảnh kim loại sắc cạnh văng phải có thể cắt đứt chân, như thợ rèn
những đồ lớn, nấu rót nước đồng, gang thép, ra gang thép, ra gang thép ở lò
cao, lò luyện thép: tiện những vật lớn băng thép với tốc độ 1000 v/phút trở
lên.
|
25
|
Ủng cao su
thường
|
- Chân phải
dầm nước bẩn, bùn bẩn, hôi thối dễ bị nhiễm trùng hoặc lở loét da chân, như:
dọn chuồng phân, đào phân trâu bò và phân tiêu, trộn vữa, đầm bê-tông, nấu
hoắc ín, nạo vét cống rãnh, v.v...
|
26
|
Ủng cao su
chống át-xít
|
- Nước
át-xít mạnh và các dung dịch hóa chất độc bắn vào làm cháy bỏng hoặc lở loét
da chân mà ủng cao su thường không chịu được như: sản xuất, đóng át-xít vào
bình…
|
27
|
Ủng cáo su
cách điện, thảm cách điện
|
- Tiếp xúc
với thiết bị có điện thế trên 36 vôn, như khi đóng cắt cầu dao điện, thay cầu
chì, điều khiển các thiết bị có điện thế cao, hàn điện, v.v...
|
28
|
Ghệt vải bạt
|
- Đập những
vật rắn, có mảnh sắc văng vào làm sây sát hoặc đứt ống chân, như đập đá, hộc,
đập gang…
|
29
|
Tất chống vắt
|
- Thường
xuyên làm việc trong rừng có nhiều vắt
|
|
II.
QUẦN ÁO LÀM VIỆC
|
|
30
|
Quần áo vải
xanh (may đệm đít và đầu gối)
|
- Nơi làm việc
có nhiều chất độc, hơi độc, bụi độc, nước bẩn bắn vào người hoặc phải tiếp
xúc với dầu mỡ nhiều, chất bẩn, hôi thối bám vào quần áo, bắt buộc phải thay
quần áo trước khi về nhà để tránh nhiễm độc, nhiễm trùng; hoặc cọ sát với vật
nặng ráp làm rách áo quần, sây sát da, như: xay bột chì; thông cống ngầm; đốt
lửa nồi hơi; tháo bao xi-măng; nấu hắc ín, sữa chữa máy; bắt đường dây điện
ngầm; khai thác than hầm lò v.v...
|
31
|
Quần áo vải
bạt
|
- Làm việc trước
lò nung, lò nhiệt luyện, có nhiệt độ cao (từ 1000 độ C trở lên); có tia bức xạ
mạnh xuyên qua tia lửa bắn vào người, như nấu đúc gang, luyện gang thép ở lò
cao, lò luyện thép v.v...
|
32
|
Quần áo chống
át-xít (bằng dạ, tơ tằm hay tơ nhân tạo chống được át-xít mạnh).
|
- Tiếp xúc
với những hóa chất mạnh bắn vào người (mà quần áo thường sẽ bị thùng) làm
cháy bỏng da thịt như: sản xuất các loại át-xít mạnh: HCl, H2SO4,
HNO3…
|
33
|
Quần áo lặn
và quần áo len
|
- Dùng cho thợ
lặn làm việc lâu dưới nước (quần áo len mặc trong quần áo lặn về mùa rét).
|
34
|
Quần áo
amiăng
|
- Tiếp xúc
với tia lửa như: chữa cháy, những công việc phải thao tác trước cửa lò cao
lúc ra gang v.v...
|
35
|
Áo bông
|
- Thường xuyên
làm việc lưu động trong rừng núi, miền rẻo cao, hải đảo, rét buốt không có
lán trại, đểm phải ngủ võng ở rừng (tiêu chuẩn này quy định riêng cho một số
cán bộ, công nhân, nhân viên thuộc ngành khảo sát địa chất, đo đạc bản đồ
trên vùng rẻo cao, hải đảo…)
|
36
|
Quần áo
bông
|
- Thường
xuyên làm việc ở nhiệt độ thấp, rét buốt (từ 4 độ C trở xuống) như làm trong
buồng ướp lạnh.
|
37
|
Áo choàng
(bờ-lu-dờ)
|
- Tiếp xúc
với hóa chất độc có thể bay hoặc dây vào quần áo; săn sóc phục vụ người bệnh,
tiếp xúc với bệnh hay lây, tử thi… gây nhiễm trùng, nhiễm độc, như: phun thuốc
trừ sâu; nhân viên hóa nghiệm, hộ lý, y tá, bác sĩ phục vụ người bệnh ở bệnh
viện v.v...
|
38
|
Quần yếm
|
- Tiếp xúc
với nhiều dầu mỡ, bụi bẩn, dây vào quần từ ngực trở xuống, phải thay trước
khi rời chỗ làm việc về nhà, như thợ tiện, bào, phay, gò nguội, điều khiển
máy cần trục; đầm bê-tông v.v...
|
39
|
Áo mưa (bằng
vải bạt, ni-lông hoặc tơi lá)
|
- Thường xuyên
làm việc lưu động ngoài trời hoặc tính chất công việc không thể trú ẩn lúc
mưa gió to, như: điều tra rừng, thủy thủ phà, giao thông viên bưu điện, đánh
cá biển, công nhân chăn trâu bò trên núi; hoặc ở chỗ làm việc thường bị nước
rò từ trên xuống như công nhân khai thác hầm lò, v.v...
|
40
|
Phao an
toàn
|
- Làm việc
trên tàu, ca-nô, thuyền, bè chạy trên sông, biển.
|
BẢNG HƯỚNG DẪN VIỆC VẬN DỤNG BẢN TIÊU CHUẨN TRANG BỊ
TRONG KHI QUY ĐỊNH CỤ THỂ CHẾ ĐỘ TRANG BỊ PHÒNG HỘ CHO TỪNG CÔNG VIỆC CỦA TỪNG
NGÀNH
Để việc áp dụng
chế độ trang bị phòng hộ được thống nhất, tránh sự chồng chéo giữa ngành này với
ngành khác đối với những công việc phổ biến, Bộ Lao động hướng dẫn việc vận dụng
bản tiêu chuẩn trang bị này như sau:
1. Đây là bản
tiêu chuẩn chung, nêu rõ tiêu chuẩn sử dụng của từng loại trang bị phòng hộ
trong những điều kiện làm việc hoặc tính chất công tác nhất định, có ảnh hưởng
đến sức khỏe và tính mệnh của công nhân, viên chức khi làm việc. Cố nhiên những
điều kiện và tính chất đó, cũng chỉ nêu được những nét điển hình, phổ biến, chứ
không thể nêu chi tiết được. Vì vậy khi vận dụng phải xuất phát từ thực tế, rồi
dựa vào tiêu chuẩn chung mà cân nhắc, phân tích kỹ, để việc quy định trang bị
được sát và hợp lý.
Cụ thể nên
làm theo trình tự sau đây:
a) Nghiên cứu
kỹ những nguyên tắc chung về trang bị phòng hộ (các điểm a, b, c, trong mục II
của thông tư) và bản quy định tiêu chuẩn trang bị phòng hộ.
b) Căn cứ vào
những nguyên tắc và tiêu chuẩn chung ấy, đối chiếu với công việc hiện có trong
từng xí nghiệp hay từng ngành mà liệt kê những công việc cần được trang bị
phòng hộ, ghi vào cột 2 của mẫu gửi kèm.
c) Căn cứ vào
điều kiện làm việc và tính chất của những công việc đó ghi vào cột 3 của bản mẫu
gửi kèm.
d) Căn cứ vào
tiêu chuẩn đã quy định xét xem những điều kiện làm việc ấy cần được trang bị loại
dụng cụ phòng hộ gì ghi vào cột 4 của bản mẫu gửi kèm.
e) Căn cứ vào
tính chất công việc và phẩm chất mỗi loại trang bị mà quy định thời hạn sử
dụng, ghi vào cột 5 của bản mẫu gửi kèm.
g) Đưa ra hội
nghị đại biểu của các đơn vị cơ sở tham gia ý kiến, chỉnh lý lại rồi trình duyệt.
2. Mỗi Bộ, Tổng
cục cần nghiên cứu quy định chế độ trang bị cho từng ngành như cơ khí, hóa chất,
khai thác hầm lò và lộ thiên, dệt, giấy, xây dựng, in, v.v... nhưng có thể không
quy định được hết, do đó đối với một số xí nghiệp có tính chất riêng biệt thì
nên giao cho xí nghiệp nghiên cứu xây dựng.
Các bản quy định
này phải được Tổng Công đoàn hoặc Công đoàn ngành dọc tham gia ý kiến và Bộ Lao
động thỏa thuận (trả lời chính thức bằng công văn) trước khi ban hành.
3. Đối với những
công việc cần có trang bị phòng hộ mà chưa quy định trong bản tiêu chuẩn này
thì đơn vị vẫn ghi vào bản quy định cụ thể để trình duyệt, đồng thời báo cáo
cho Bộ Lao động biết để bổ sung thêm.
4. Một số dụng
cụ phương tiện cần thiết để làm việc hay dùng trong sinh hoạt (tuy ít nhiều có
tính chất bảo đảm an toàn) lâu nay có nơi đã coi là trang bị phòng hộ, nay cần
quy định riêng như: đèn pin, võng ngủ rừng, ba lô, cặp da công tác, bi đông đựng
nước, túi đựng dụng cụ, v.v... không quy định vào trang bị phòng hộ
5. Những tiêu
chuẩn để bảo vệ sức khỏe công nhân có tính chất cung cấp như: xà phòng để rửa
chân tay sau khi làm việc, thuốc phòng lở loét đối với công nhân nông trường
khi làm việc ở những ruộng nước bẩn, v.v... sẽ quy định riêng.
6. Trong hòan
cảnh hiện nay, việc vận dụng tiêu chuẩn trang bị phòng hộ phải với tinh thần tiết
kiệm chung nhưng vẫn đảm bảo yêu cầu của công tác. Ví dụ: một bộ phận công tác
chỉ cần 2 ống tay mặc vào thì không cần quy định cấp phát áo làm việc, hoặc chỉ
cần 10 cái bọc ngón tay thì không quy định cấp phát găng tay v.v...
Số
thứ tự
|
CÔNG VIỆC CẦN TRANG BỊ
|
Điều kiện làm việc hoặc tính chất công tác cần bảo đảm an toàn
|
ĐƯỢC
TRANG BỊ
|
THỜI
HẠN SỬ DỤNG
|
CHÚ
THÍCH
|
|
Ví dụ:
|
- Nhiệt độ
trong lò thường xuyên trên 1000 độ
- Nước kim
loại bắn vào chân.
- Bụi tro,
than bám vào người.
- Ánh sáng
quá chói mắt
|
- Quần áo,
mũ, vải bạt.
- Kính màu
- Ghệt vải
bạt
- Khẩu
trang
- Giầy da
cao cổ
- Găng tay
vải bạt
|
1năm
6 tháng
3 tháng
1 năm
3 tháng
|
|
|
|
Không thời
hạn lúc nào hỏng thì sắm
|
1
|
Thợ nấu
thép, gang, đồng
|
|
|
2
|
Thợ lắp ráp
các loại máy.
|
- Dầu mỡ bẩn.
Có khi phải leo trèo làm việc trên cao
|
- Quần áo
mũ vải xanh
- Giầy da
an toàn
- Giầy vải
|
1 năm
|
1 số để
dùng chung khi cần làm trên cao khi nào hỏng thì sắm
|
3
|
Công nhân
khảo sát địa chất, đo đạc bản đồ…
|
- Thường xuyên
làm việc ngoài trời.
- Có khi
qua lại những nơi rừng núi, gai góc, bùn lầy.
- Phải
khiêng vác dụng cụ, vật liệu
|
- Áo mưa vải
bạt
- Quần áo vải
xanh
- Giầy vải
đi rừng
- Giầy vải
thường
- Ủng cao
su
- Phao an
toàn
- Giây thừng
|
3
năm
1
năm
6
tháng
6
tháng
1
năm
Không
thời hạn
-
|
Dùng cho bộ
phận làm việc miền rừng núi.
Dùng cho bộ
phận làm việc miền đồng bằng.
Dùng cho bộ
phận làm việc nơi đầm lầy.
Dùng cho
trường hợp phải qua sông, qua suối sâu
Dùng cho trường
hợp leo núi cao, xuống giếng sâu
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|