BỘ CÔNG NGHIỆP NHẸ
*******
Số:
313-BCNNh-CBLĐ
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
*******
Hà
Nội, ngày 23 tháng 11 năm 1964
|
THÔNG TƯ
QUY ĐỊNH CHẾ ĐỘ TRANG BỊ PHÒNG HỘ LAO ĐỘNG TRONG NGÀNH CÔNG
NGHIỆP NHẸ
Kính
gửi:
|
Ông Cục trưởng các Cục Quản lý
sản xuất,
Ông Giám đốc các xí nghiệp,
Ông Giám đốc các Sở, Ty Công nghiệp và thủ công nghiệp,
Ông Giám đốc các Cục, Vụ, Viện, Trường thuộc Bộ,
|
Trong mấy
năm qua, trước yêu cầu sản xuất ngày càng phát triển, để đảm bảo an toàn trong
sản xuất và bảo vệ sức khỏe cho công nhân, viên chức Bộ Lao động đã ban hành
các Thông tư số 18-LĐTT ngày 17-06-1958, Thông tư số 04-LĐ-TT ngày 13-02-1961
và Thông tư số 13-LĐ-TT ngày 29-06-1962 thay thế các thông tư nói trên và quy định
có tính chất nguyên tắc chung về trang bị phòng hộ cho các ngành nghề. Các xí
nghiệp thuộc Bộ đã dựa vào các thông tư trên để quy định cụ thể chế độ trang bị
cho các ngành nghề thuộc các xí nghiệp mình và đã có nhiều cố gắng trong việc cấp
phát, sử dụng và nghiên cứu cải tiến một số loại dụng cụ phòng hộ lao động cho
thích hợp. (Trong thông tư này dùng chữ phòng hộ để thay thế chữ phòng hộ lao động).
Nhưng đến
nay, tình hình hình sản xuất của ngành công nghiệp nhẹ ngày càng phát triển
nhanh chóng bao gồm nhiều ngành nghề khác nhau, thao tác phức tạp, sử dụng nhiều
hóa chất, công nhân làm việc trong những điều kiện tiếp xúc với nhiều hơi nóng,
bụi độc, khí độc v.v... nhưng chế độ trang bị phòng hộ chưa được ban hành đầy đủ
và thống nhất cho toàn ngành do đó xí nghiệp cũng gặp trở ngại trong việc dự
trù mua sắm dụng cụ phòng hộ để trang bị cho công nhân sản xuất. Mặt khác việc
quy định và phân công trách nhiệm của các bộ môn chưa được rõ ràng, nội quy sử
dụng bảo quản các dụng cụ phòng hộ cũng chưa được quy định cụ thể.
Căn cứ theo
tinh thần Thông tư số 13-LĐ-TT ngày 29-06-1962 của Bộ Lao động về việc quy định
nguyên tắc cấp phát, sử dụng và giữ gìn trang bị phòng hộ:
Căn cứ theo
các ngành nghề của ngành công nghiệp nhẹ hiện nay;
Để đáp ứng
yêu cầu sản xuất nhằm góp phần ngăn ngừa tai nạn lao động và các bệnh nghề nghiệp
làm ảnh hưởng sức khỏe công nhân;
Sau khi thỏa
thuận với Bộ Lao động, Tổng công đoàn Việt Nam và Công đoàn ngành công nghiệp
nhẹ Việt Nam, Bộ Công nghiệp nhẹ ban hành "quy định trang bị phòng hộ lao
động" cho từng ngành nghề và thống nhất trong toàn ngành công nghiệp nhẹ,
nhằm:
- Phân biệt
tính chất và điều kiện lao động cụ thể của từng ngành nghề để trang bị thích hợp
với yêu cầu của sản xuất;
- Quy định những
nguyên tắc cấp phát, sử dụng, bảo quản và trách nhiệm của các bộ môn trong việc
dự trù mua sắm, cấp phát dụng cụ và trách nhiệm bảo quản của cá nhân được cấp
phát dụng cụ phòng hộ lao động.
I. MỤC ĐÍCH CỦA
CHẾ ĐỘ TRANG BỊ PHÒNG HỘ LAO ĐỘNG
Để đảm bảo an
toàn trong khi sản xuất và bảo vệ sức khỏe cho công nhân nhằm đáp ứng yêu cầu của
sản xuất, việc quan trọng hơn hết là phải không ngừng cải tiến, bổ sung các thiết
bị sản xuất, thiết bị an toàn và cải thiện điều kiện làm việc.
Tuy vậy,
trong những trường hợp mà điều kiện sản xuất cũng như các thiết bị chưa đảm bảo
đầy đủ thì phải có thêm những dụng cụ phòng hộ. Do đó dụng cụ phòng hộ chỉ là
những phương tiện cần thiết làm tăng thêm điều kiện an toàn và bảo vệ sức khỏe
cho công nhân, trong khi thiết bị an toàn chưa được giải quyết hết. Cho nên
cùng một loại công việc như nhau nhưng điều kiện làm việc hoặc tính chất công
tác khác nhau thì quy định trang bị phòng hộ cũng khác nhau. Khi điều kiện làm
việc được cải tiến hoặc thiết bị bổ sung đầy đủ hơn, các nhân tố gây ra tai nạn
và bệnh tật đã được khắc phục, thì lúc đó tiêu chuẩn trang bị phòng hộ sẽ thay
đổi cho thích hợp.
Mặt khác,
trong hoàn cảnh kinh tế của ta hiện nay, việc trang bị phòng hộ cũng còn phải
căn cứ vào khả năng tài chính của Nhà nước mà giải quyết dần từng bước theo đà
phát triển của nền kinh tế.
II. NHỮNG
NGUYÊN TẮC CHUNG VỀ CẤP PHÁT TRANG BỊ PHÒNG HỘ LAO ĐỘNG
1. Điều kiện
được trang bị:
Khi công nhân
viên chức làm việc ở trong một hay nhiều điều kiện sau đây thì được trang bị những
dụng cụ phòng hộ cần thiết:
a) Làm việc
trực tiếp trong những nơi có chất độc, hơi độc, khí độc, hôi thối, bẩn thỉu nhiễm
vào người dễ gây ra tai nạn, phát sinh bệnh nghề nghiệp hoặc ảnh hưởng tới sức
khỏe (ví dụ: các loại hóa chất, khí than, bụi kim loại; nạo rửa da; công nhân tầm
gỗ v.v...).
b) Làm việc ở
một trong những điều kiện không bình thường như:
- Tiếp xúc với
những vật bị đun nóng, nung nóng, hơi khí nóng, nước sôi và những mảnh kim loại
nóng bắn vào người có thể làm bỏng da thịt (ví dụ: cán, đúc nhôm, tráng nung sắt
tráng men; lò nung sứ v.v...)
- Làm việc
trong những hầm kín, buồn kín thiếu không khí khó thở (như nhà hầm nhà máy bia)
hoặc làm những việc phải thường xuyên dưới nước (như công nhân vớt gỗ dưới
sông).
- Làm việc
trong điều kiện ánh sáng chói quá, có hại đến mắt, da. Ở nơi có nhiều bụi quá
tiêu chuẩn quy định, hoặc thường xuyên phải lao động ngoài trời, chịu ảnh hưỏng
nắng, mưa, sương muối.
c) Làm việc
trong những điều kiện nguy hiểm:
- Tiếp xúc với
thiết bị có điện thế trên 36 vôn;
- Làm việc
trên cao;
- Tiếp xúc với
những vật nhọn sắc cạnh; cọ sát với vật nặng có thể bị xây sát cơ thể;
- Thường
xuyên làm việc trong rừng rậm; leo núi, giẫm phải gai góc, dễ bị sên, vắt, rắn
rết cắn.
2. Đối tượng
được trang bị:
a) Công nhân
viên chức thuộc hai đối tượng, bao gồm lực lượng thường xuyên và lực lượng tạm
thời (trừ những người làm khoán tự do đơn vị sử dụng không trực tiếp quản lý
nhân công) khi làm việc ở một hai nhiều điều kiện nói trên đều được đơn vị sử dụng
trang bị những dụng cụ phòng hộ đã được quy định. Những đối tượng ấy cụ thể là:
- Công nhân,
viên chức làm việc thường xuyên, liên tục cho xí nghiệp, công trường;
- Công nhân,
viên chức làm việc có tính chất đột xuất, thời vụ, có việc thì làm hết việc thì
nghỉ;
- Công nhân học
nghề;
- Học sinh,
sinh viên các trường đến thực tập (nhưng những dụng cụ trang bị này do nhà trường
tự mua sắm).
- Quản đốc,
phó quản đốc, trưởng ngành, trưởng ca, chủ nhiệm buồng máy, cán bộ làm nhiệm vụ
kiểm tra bảo hộ lao động; cán bộ, nhân viên các Phòng, Ban kỹ thuật; nghiệp vụ
nếu thường xuyên trực tiếp hướng dẫn và tham gia sản xuất, sửa chữa cùng với
công nhân sẽ được trang bị để sử dụng chung, nhưng tùy tình hình cụ thể xét thấy
cần thiết sẽ trang bị cá nhân nhưng phải được Bộ duyệt, để sử dụng trong khi cần
thiết.
b) Đối với những
công việc tuy làm không thường xuyên, nhưng khi làm cần thiết phải có trang bị
phòng hộ, thì đơn vị được mua sắm một số dự phòng cho khi làm những công việc
đó như: áo mưa, ủng cách điện, găng tay cách điện, ủng cao-su v.v...
c) Đối với những
công việc không gây nhiễm độc và nguy hiểm mà chỉ làm trong một thời gian ngắn,
sau đó lại đi làm việc khác, nếu chưa được trang bị đầy đủ cũng không gây ra
tai nạn thì không nhất thiết phải trang bị đầy đủ như tiêu chuẩn quy định,
nhưng đối với những công việc dễ nhiễm độc, nhiễm trùng hoặc nguy hiểm đến tính
mạng thì mặc dù chỉ làm trong một thời gian ngắn, công nhân phải được trang bị
đầy đủ phòng hộ theo quy định mới được làm, như làm việc trên cao phải có dây
da an toàn, lặn dưới nước phải có dây an toàn và đồ lặn trực tiếp với điện phải
có trang bị an toàn về điện.
III. NGUYÊN TẮC
SỬ DỤNG VÀ BẢO QUẢN DỤNG CỤ PHÒNG HỘ LAO ĐỘNG
1. Nguyên
tắc sử dụng:
a) Cá nhân, tổ,
bộ phận được cấp phát hoặc được mượn dụng cụ trang bị phòng hộ đều bắt buộc phải
sử dụng trong khi làm việc và chỉ được sử dụng những dụng cụ đó trong khi làm
những việc đã được quy định trong chế độ.
b) Những dụng
cụ phòng hộ cấp phát cho công việc nào chỉ dùng cho công việc ấy, nhất thiết
không được dùng lẫn lộn, vì một dụng cụ nhất định chỉ có tác dụng cho một công
việc nhất định. Ví dụ: không thể dùng ủng đi mưa vào việc cách điện, không thể
dùng găng tay vải để tiếp xúc với a-xít...
c) Trong trường
hợp đã được cấp phát hoặc cho mượn dụng cụ phòng hộ nhưng khi làm lại không sử
dụng thì những người có trách nhiệm đảm bảo an toàn có quyền yêu cầu phải mang
dụng cụ phòng hộ mới được làm việc, hoặc làm những việc có tính chất nguy hiểm
thì cán bộ bảo hộ lao động có quyền buộc phải tạm ngừng chưa cho làm việc và
báo cáo lên cấp trên giải quyết.
d) Trước khi
giao dụng cụ phòng hộ lao động cho công nhân sử dụng, người phụ trách kho phải
hướng dẫn cách sử dụng và bảo quản.
đ) Những người
được trang bị phòng hộ cá nhân khi được đưa sang làm việc khác trong cùng xí
nghiệp nhưng không có trong tiêu chuẩn trang bị phòng hộ thì trả lại những dụng
cụ ấy cho xí nghiệp, nếu bộ phận mới có tiêu chuẩn trang bị thêm hay rút bớt
thì sẽ được trang bị thêm hoặc rút bớt. Trường hợp được đổi từ bộ phận này sang
bộ phận khác trong cùng một nhà máy mà quy định trang bị như nhau thì được mang
đi theo và ghi vào sổ để đơn vị mới tiện theo dõi và cấp phát. Khi thuyên chuyển
hẳn ra khỏi cơ quan hoặc nhà máy thì tất cả dụng cụ phòng hộ (kể cả quẩn áo, giầy
mũ) phải được trả lại cho đơn vị cũ; trước khi giao nạp cho thủ kho bảo quản phải
giặt giũ, lau chùi sạch sẽ.
2. Nguyên
tắc giữ gìn và bảo quản:
a) Để đảm bảo
chất lượng dụng cụ (nhất là những dụng cụ cách điện, phòng độc, dây da) xí nghiệp
cần kiểm tra, thử lại trước khi cấp phát cho công nhân sử dụng và có chế độ định
kỳ đối với những loại dụng cụ nhất định. Về phần công nhân trước khi làm việc tự
mình phải kiểm tra, thử lại để đảm bảo an toàn trong khi sản xuất.
b) Những tổ
và bộ phận được trang bị dụng cụ phòng hộ để dùng chung cần quy định chỗ để chung
(giá hoặc tủ) ở nơi khô ráo, thoáng khí, tránh ẩm ướt, mối, chuột hoặc han gi.
Phải phân công người giặt giũ bảo quản chu đáo.
c) Những dụng
cụ được trang bị hay cho mượn nếu hư hỏng,nhẹ thì cá nhân hoặc tổ tự sửa chữa lấy.
Cơ quan, xí nghiệp chịu trách nhiệm sửa chữa những dụng cụ phòng hộ rách nhiều
hoặc hư hỏng nặng mà cá nhân hoặc bộ phận không có điều kiện sửa chữa.
d) Dụng cụ
phòng hộ và quần áo làm việc ở những chỗ dơ bẩn gây nhiều nhiễm độc, nhiễm
trùng, cơ quan có trách nhiệm phải định kỳ khử độc, khử trùng hoặc tẩy nấu để đảm
bảo vệ sinh đề phòng bệnh tật. Trước khi lĩnh dụng cụ, trang bị mới, nhất thiết
phải nộp dụng cụ cũ đã được giặt giũ sạch sẽ, trừ quần áo trang bị phòng hộ cũ
thì được giữ lại sau một kỳ cấp phát sẽ trả lại kho. Ví dụ quần áo được cấp
phát năm 1964, đến kỳ lĩnh quần áo năm 1966 mới phải trả lại kho. Sở dĩ chưa
thu hồi là để công nhân có quần áo cũ thay đổi khi giặt giũ. Người phụ trách
kho có trách nhiệm bảo quản những dụng cụ đó, sau này tùy điều kiện sử dụng.
e) Những quần
áo trang bị phòng hộ đã được cấp phát cho mỗi người không được tự ý sửa chữa
theo ý muốn cá nhân sai với quy cách chung.
3. Khen
thưởng và kỷ luật:
Để khuyến
khích mọi người có ý thức bảo quản tốt những dụng cụ phòng hộ lao động và ngăn
ngừa những hiện tượng sử dụng bừa bãi, lãng phí của công, cần đặt ra những hình
thức khen thưởng, kỷ luật:
a) Những người
có ý thức tiết kiệm, sử dụng bảo quản tốt những dụng cụ phòng hộ lao động, kéo
dài thời gian sử dụng hơn thời gian đã quy định mà vẫn đảm bảo an toàn trong sản
xuất sẽ được khen thưởng và được tính thành tích trong bình bầu thi đua.
b) Hàng năm
xí nghiệp trích một khoản tiền bằng 20 đến 30% giá trị tiết kiệm được của những
dụng cụ đã được sử dụng lâu hơn thời gian quy định để thưởng cho những người có
ý thức tiết kiệm những trang bị đó. Việc khen thưởng này chỉ áp dụng đối với
công nhân trực tiếp sản xuất phải sử dụng trang bị phòng hộ thường xuyên và chỉ
thực hiện đối với những trang bị có tính toán được thời gian sử dụng rõ ràng
như các loại quần áo, giầy ủng v.v...
c) Trường hợp
làm mất hoặc hư hỏng dụng cụ phòng hộ mà không có lý do chính đáng, thì đơn vị
tùy theo lỗi nặng nhẹ mà xử trí bằng biện pháp hành chính, từ phê bình, cảnh
cáo đến bồi thường bằng tiền hoặc hiện vật nếu dụng cụ đó mới được cấp phát mà
làm mất (áp dụng nguyên tắc bồi thường khi cán bộ, công nhân, viên chức làm mất
tiền hay đồ vật của Nhà nước quy định tại văn bản số 1076-TN ngày 14-03-1958 của
Phủ Thủ tướng). Việc xử trí này do cấp phụ trách đơn vị quyết định với sự thỏa
thuận của Công đoàn cùng cấp tùy theo số tiền bồi thường có ảnh hưởng tới sinh
hoạt của công nhân nhiều hay ít để trừ dần vào lương hàng tháng, nhưng mỗi lần
không trừ quá 20% tiền lương và phụ cấp bản thân người công nhân đó.
IV. TRÁCH NHIỆM
THI HÀNH CHẾ ĐỘ TRANG BỊ PHÒNG HỘ
a) Thông tư
này chỉ nêu lên một số vấn đề có tính chất nguyên tắc tổng quát của ngành công
nghiệp nhẹ, và bản quy định chế độ trang bị phòng hộ cho các nghề kèm theo
thông tư này chỉ quy định đối với những ngành nghề có tính chất chung còn một số
ít ngành nghề riêng biệt của từng nhà máy mà Bộ không quy định thì các đơn vị
căn cứ vào Thông tư số 13-LĐ-TT của Bộ Lao động và tinh thần của thông tư này với
điều kiện thực tế mà quy định cụ thể cho thích hợp. (Khi xây dựng cần có sự
tham gia của tổ sản xuất, của phân xưởng và của Công đoàn cùng cấp và phải được
Bộ duyệt y mới được thi hành).
b) Căn cứ vào
những nguyên tắc chung về cấp phát, sử dụng và giữ gìn trang bị mỗi đơn vị sẽ
xây dựng một nội quy cụ thể. Nội quy này phải được sự thỏa thuận của Công đoàn
cùng cấp và phối hợp với các đoàn thể để có kế hoạch tuyên truyền phổ biến sâu
rộng những quy định này trong công nhân, viên chức.
c) Hàng năm
khi lập kế hoạch sản xuất và kế hoạch bảo hộ lao động các xí nghiệp cần dựa vào
những quy định trang bị cho các ngành nghề trong xí nghiệp mình để lập dự trù về
trang bị phòng hộ gửi về Bộ duyệt. Kế hoạch dự trù phải gửi cùng một lúc với kế
hoạch bảo hộ lao động hàng năm (Bộ sẽ có công văn hướng dẫn riêng phần này).
d) Trách nhiệm
của các bộ môn trong việc lập và thực hiện kế hoạch trang bị phòng hộ trong mỗi
xí nghiệp Bộ quy định như sau:
- Cán bộ phụ
trách bảo hộ lao động căn cứ vào kế hoạch sản xuất, kế hoạch lao động đồng thời
căn cứ vào quy định trang bị phòng hộ của Bộ và điều kiện sản xuất của đơn vị để
lập kế hoạch dự trù trang bị phòng hộ lao động. Sau khi kế hoạch đã được Bộ duyệt
thì đôn dốc theo dõi việc mua sắm, hướng dẫn cách sử dụng, bảo quản, đồng thời
tổ chức việc kiểm tra đối với những dụng cụ đòi hỏi phải đảm bảo an toàn tuyệt
đối như phao bơi, dây an toàn, ủng và găng cao-su cách điện v.v...
- Bộ phận kế
hoạch và tài vụ, căn cứ vào kế hoạch trang bị phòng hộ lao động đã được thông
qua nhà máy để tổng hợp cùng một lúc khi lập kế hoạch sản xuất và kế hoạch bảo
hộ lao động hàng năm để trình lên Bộ xét duyệt kinh phí.
- Bộ phận
cung tiêu căn cứ vào kế hoạch dự trù đã được Bộ duyệt tổ chức việc mua sắm, bảo
quản và cấp phát, thu hồi và sửa chữa. Khi cấp phát phải có sổ theo dõi và thống
kê số tiết kiệm.
- Bộ phận Y tế
hướng dẫn và tổ chức việc khử độc, khử trùng định kỳ đối với các loại trang bị
dơ bẩn dễ gây nhiễm trùng, nhiễm độc.
V. PHẠM VI ÁP
DỤNG
Những nguyên
tắc và tiêu chuẩn quy định trong thông tư này áp dụng cho các xí nghiệp, công
trường, nông trường, các trạm trồng cây công nghiệp, các Cục, Vụ, Viện, trường
học trong toàn ngành công nghiệp nhẹ có công nhân, viên chức làm việc trong những
điều kiện nói ở điểm 1 mục II. Đối với các xí nghiệp công nghiệp địa phương,
các Sở, Ty Công nghiệp và thủ công nghiệp có thể dựa vào tinh thần thông tư này
và phối hợp với Sở, Ty Lao động địa phương xây dựng những quy định và trình Ủy
ban hành chính địa phương xét duyệt.
Thông tư này
có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký. Kèm theo thông tư này có bản quy định trang
bị phòng hộ cho các loại công nhân, viên chức trong toàn ngành.
Chính sách bảo
hộ lao động là một trong những chính sách lớn của Đảng và Nhà nước cần phải được
quán triệt từ trên xuống dưới, từ cán bộ lãnh đạo đến công nhân viên, vì vậy Bộ
yêu cầu các cấp, các đơn vị cần tăng cường hơn nữa công tác tuyên truyền, giáo
dục ý thức làm cho mọi người thấm nhuần phương châm "An toàn để sản xuất
và sản xuất phải an toàn" của Đảng và Nhà nước mà thực hiện nghiêm chỉnh
những quy định của Chính phủ và của Bộ về công tác bảo hộ lao động.
|
BỘ
TRƯỞNG BỘ CÔNG NGHIỆP NHẸ
Kha Vạn Cân
|
BẢNG QUY ĐỊNH TRANG BỊ PHÒNG HỘ LAO ĐỘNG CHO NHỮNG NGÀNH
NGHỀ THUỘC BỘ CÔNG NGHIỆP NHẸ
(Ban hành kèm theo Thông tư số 313-BCNNh-CBLĐ ngày 23-11-1964 của Bộ
Công nghiệp nhẹ)
MỤC
LỤC
I. Ngành cơ
điện
II. Ngành
thực phẩm
1. Nhà máy đường
2. Nhà máy rượu
3. Nhà máy
bia
4. Nhà máy nước
đá
5. Nhà máy miến
mì chính
6. Nhà máy
chè
7. Nhà máy
thuốc lá Thăng Long
8. Công nhân
làm muối
III. Ngành
dệt da may mặc
1. Công nhân
dệt và may mặc
2. Công nhân
nhà máy len
3. Công nhân
nhà máy thuộc da
IV. Ngành
vật dụng
1. Nhà máy
văn phòng phẩm Hồng Hà
2. Nhà máy xà
phòng Hà Nội
3. Nhà máy
diêm Thống Nhất
4. Nhà máy sứ
Hải Dưong
5. Nhà máy ép
dầu Vinh
6. Nhà máy sắt
tráng men nhôm Hải Phòng
7. Nhà máy
phin Văn Điền
8. Nhà máy
bóng đèn phích nước
9. Nhà máy nhựa
Hải Phòng
V. Ngành
giấy
VI. Ngành
gỗ
VII. Ngành
hóa chất (kể cả các bộ phận nhuộm)
VIII. Các
phòng kỹ thuật và cung tiêu
IX. Các
phòng quản trị và hành chính.
GHI CHÚ: Bảng quy định
chi tiết không đăng vì khuôn khổ tờ công báo có hạn. Khi nghiên cứu đề nghị xem
thêm văn bản của Bộ Công nghiệp nhẹ.