Thông tư 1196-TTg năm 1956 giải thích và bổ sung chính sách phân định thành phần giai cấp ở nông thôn do Phủ Thủ Tướng ban hành

Số hiệu 1196-TTg
Ngày ban hành 28/12/1956
Ngày có hiệu lực 12/01/1957
Loại văn bản Thông tư
Cơ quan ban hành Phủ Thủ tướng
Người ký Phan Kế Toại
Lĩnh vực Văn hóa - Xã hội

PHỦ THỦ TƯỚNG
******

VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 1196-TTg

Hà Nội, ngày 28 tháng 12 năm 1956 

 

THÔNG TƯ

VỀ VIỆC GIẢI THÍCH VÀ BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỂM VỀ CHÍNH SÁCH PHÂN ĐỊNH THÀNH PHẦN GIAI CẤP Ở NÔNG THÔN.

Ngày 01-3-1955 Thủ tướng phủ đã ban hành bản điều lệ phân định thành phần giai cấp ở nông thôn và ngày 9-10-1955 lại có bản bổ sung quy định việc phân định thành phần giai cấp ở các vùng ngoại thành.

Trung tuần tháng 5-1955 Hội đồng Chính phủ lại thông qua “Mấy vấn đề bổ sung vào chính sách cải cách ruộng đất đối với vùng mới giải phóng ” trong đó có một số vấn đề về phân định thành phần giai cấp.

Kiểm điểm lại trong đợt cải cách ruộng đất vừa qua, việc phân định thành phân giai cấp đã phạm nhiều lệch lạc nhất là đã quy lầm một số nông dân và thành phần khác lên địa chủ.

Để bảo đảm việc sửa chữa sai lầm về phân định thành phần được đúng đắn, nay giải thích rõ những văn bản đã ban hành trứơc đây và bổ sung thêm một số điểm về chính sách phân định thành phần giai cấp như sau:

I. - NHỮNG ĐIỂM CẦN GIẢI THÍCH THÊM

Mục đích ý nghĩa của việc phân định thành phần giai cấp ở nông thôn.

Trong bản điều lệ, có nói “Phân định thành phần giai cấp là một việc rất quan trọng trong khi tiến hành cải cách ruộng đất. Mục đích của việc này là để phân rõ ranh giới giữa nông dân và địa chủ, do đó đoàn kết giai cấp nông dân lao động, phân hoá và đánh đỗ giai cấp địa chủ, thi hành đúng đường lối chính sách của Chính phủ ở nông thôn”.

Chúng ta cần nhận rõ tầm quan trọng và mục đích ý nghĩa của việc phân định thành phần giai cấp, nắm vững chính sách và tiêu chuẩn, đề cao tinh thần trách nhiệm, dựa vào quần chúng để sửa chữa sai lầm về phân định thành phần được đúng, đảm bảo không quy oan thành phần một người nào, cũng như không hạ lầm một địa chủ nào xuống nông dân.

Về việc phân định thành phần có mấy vấn đề cần chú ý:

1) Tiêu chuẩn để phân định thành phần giai cấp ở nông thôn:

Trong bản điều lệ đã nói rõ “Tiêu chuẩn cốt yếu để phân định thành phần giai cấp là nguồn sống chính của mọi người, mọi gia đình, do ở chỗ họ có hay không có ruộng đất, trâu bò, nông cụ, nhà cửa…. có những gì ?  Có bao nhiêu?  Sử dụng thế nào (tự làm lấy, thuê người làm hoặc phát canh thu tô), mà định họ thuộc vào hạng bốc lột, bị bóc lột hoặc tự lao động”.

Về tiêu chuẩn địa chủ, bản điều lệ đã quy định “Địa chủ là những người chiếm hữu nhiều ruộng đất, tự mình không tham gia lao động chính hoặc chỉ tham gia lao động phụ, nguồn sống chính nhờ vào bóc lột nông dân theo lối phát canh thu tô hoặc thuê người làm. Địa chủ có người kiêm cho vay lãi, kiêm công thương nghiệp nhưng cách bóc lột chính và thông thường của địa chủ là phát canh thu tô”.

Như vậy, cần phải chú ý:

Tiêu chuẩn để phân định thành phần một gia đình là nguồn sống chính của gia đình đó, không thể căn cứ vào tội ác, thái độ chính trị, lịch sử (làm hào lý, ngụy quyền…) của người đó, cũng không thể chỉ căn cứ vào mức sinh hoạt của người đó mà vạch thành phần của họ.

Trong khi vạch một gia đình là địa chủ, phải cân nhắc cả ba mặt chiếm hữu, lao động, bóc lột của gia đình đó. Không nên chỉ nhìn một mặt như  thấy không lao động là quy lên địa chủ, mà không xét mặt chiếm hữu và mức bóc lột của gia đình đó thế nào. Trong khi xét các tiêu chuẩn trên đây phải chú ý đến tiêu chuẩn thời gian (xem  điều 6 của bản thông tư này).

2) Phân biệt lao động chính với lao động phụ:

Bản điều lệ quy định “Lao động chính là làm công việc sản xuất chính như cày, bừa, cấy, gặt… lao động phụ là làm công việc phụ như giúp cào cỏ, tát nước([1]), chăn trâu, hái rau… Một người  tuy tham gia lao động chính nhưng không đủ 4 tháng trong một năm thì vẫn gọi là lao động phụ”.

Nay giải thích và bổ sung thêm những điểm sau đây:

a) Lao động chính là làm những công việc có quan hệ trực tiếp đến sản xuất nông nghiệp như cày, bừa, cấy, gặt, làm cỏ, bón phân, tát nước và làm đủ 120 ngày trong một năm.

b) Lao động phụ là quanh năm chỉ làm những công việc không quan hệ trực tiếp đến sản xuất nông nghiệp như: thổi cơm, nấu nước, dọn dẹp nhà cửa, chăn trâu … (hoặc làm công việc thuộc về lao động chính nhưng không làm tới 120 ngày  trong một năm).

Không bắt buộc phải làm đủ mọi công việc cày, bừa, cấy, gặt, làm cỏ, tát nước mới coi là lao động chính; một người chỉ làm một vài việc trong các việc trên mà làm đủ 120 ngày trong một năm thì cũng coi là có lao động chính.

Trong khi xét về lao động chính của một người phải căn cứ theo mức lao động bình thường, không thể lấy mức lao động vất vả của bần cố nông làm tiêu chuẩn.

c) Phải căn cứ vào đặc điểm của từng địa phương và cân nhắc từng trường hợp cụ thể trong khi xét về lao động chính. Nhiều nơi, phụ nữ không biết cày bừa, chỉ cấy gặt  rồi trồng dâu, nuôi tằm hoặc dệt cửi thêm…vẫn phải coi là có lao động chính. Vùng trồng rau, trồng hoa (như ở ngoại ô các thành thị) thì việc tưới rau, tưới hoa phải coi là lao động chính. Vùng trồng chè không cày bừa, thì việc làm cỏ chè, hái chè cũng phải coi là lao động chính.

d) Thời gian lao động chính trong một năm nói chung là 4 tháng hai 120 ngày. Có người làm công việc lao động chính không đủ 120 ngày còn thiếu một số ít ngày nữa, nhưng lại làm thêm các công việc khác như làm nghề phụ… thì vẫn coi là có lao động chính. Có những vùng, ruộng chỉ cấy một vụ, thời gian lao động nông nghiệp trong một năm không đến 120 ngày thì cũng không máy móc tính đủ số ngày đó, mà phải căn cứ vào tình hình thực tế ở địa phương, do quần chúng ở địa phương đó bàn, rồi đề nghị lên Uỷ ban Hành chính tỉnh xét duyệt.

e) Có những người trước vẫn có lao động chính, nhưng sau vì già yếu, bận con mọn, cho nên lao động ít đi, hoặc người nhà bị hy sinh, vì kháng chiến, đi bộ đội, làm cán bộ thoát ly… cho nên phải phát canh hoặc thuê người làm, thì vẫn phải coi gia đình đó là có lao động chính và vạch theo thành phần cũ của họ.

g) Lao động chính nói ở đây là chỉ vào lao động nông nghiệp, cốt để phân biệt giữa địa chủ với phú nông và nông dân lao động. Ở nông thôn có những người làm nghề khác như thợ thủ công, tiểu thương, tiểu chủ, giáo học… thì phải coi họ là những người lao động, đối đãi với họ như nhân dân lao động. Nếu họ có ruộng đất cho phát canh hoặc thuê người làm thì trong khi phân định thành phần giai cấp phải rất thận trọng theo như điểm 4 trong bản thông tư này.

[...]