Thông tư 120-TTg năm 1957 giải thích và bổ sung chính sách phân định thành phần giai cấp ở nông thôn do Thủ Tướng Chính Phủ ban hành

Số hiệu 120-TTg
Ngày ban hành 30/03/1957
Ngày có hiệu lực 14/04/1957
Loại văn bản Thông tư
Cơ quan ban hành Thủ tướng Chính phủ
Người ký Phan Kế Toại
Lĩnh vực Văn hóa - Xã hội

THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
******

VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 120-TTg

Hà Nội, ngày 30 tháng 03 năm 1957 

 

THÔNG TƯ

GIẢI THÍCH VÀ BỔ SUNG VỀ CHÍNH SÁCH PHÂN ĐỊNH THÀNH PHẦN GIAI CẤP Ở NÔNG THÔN

Sau khi Thủ tướng phủ ban hành 2 Thông tư số 1196-TTg ngày 28-12-1956 và số 012-TTg ngày 12-01-1957 về việc phân định thành phần giai cấp ở nông thôn, nhiều địa phương còn những thắc mắc hoặc đề nghị bổ sung, nay Thủ tướng phủ giải thích và bổ sung thêm những điểm cụ thể sau đây:

1. - Về tiêu chuẩn để phân định thành phần:

Trong khi vạch một gia đình là địa chủ, phải căn cứ tren cả ba mặt:

1) Chiếm hữu hoặc sử dụng ruộng đất, (1)

2) Lao động,

3) Bóc lột,

của gia đình đó, chứ không thể đơn thuần chỉ nhìn vào một mặt nào.

Không quy định mức chiến hữu ruộng đất đến bao nhiêu mới vạch là địa chủ, vì tình hình ruộng đất mỗi nơi một khác, nếu định mức chiếm hữu ruộng đất để phân định thành phần thì không sát và dễ sinh ra máy móc.

Không quy định người từ bao nhiêu tuổi trở lên mới coi là lao động chính, mà chỉ cần xét xem người đó có làm những công việc thuộc về lao động chính và đủ 120 ngày trong một năm hay không?

Ở miền núi, một người nông dân làm ruộng không đủ 04 tháng trong một năm, nhưng thường ngày đi kiếm lâm thổ sản thêm thì vẫn phải coi là có lao động chính. Trong Thông tư số 1196-TTg của Thủ tướng phủ đã nói rõ: "Có người làm công việc lao động chính không đủ 120 ngày, còn thiếu một số ít ngày nữa, nhưng lại làm thêm các công việc khác như làm nghề phụ, thì vẫn coi là có lao động chính".

Không lấy mức sinh hoạt làm tiêu chuẩn để vạch thành phần, vì có địa chủ giả nghèo, giả khổ, có trung nông, phú nông mức sinh hoạt khá; nếu lấy mức sinh hoạt làm căn cứ thì dễ bị lầm lẫn.

2. – Đối với những người làm nghề khác kiêm có ruộng đất cho phát canh hoặc thuê người làm:

a) Trong bản điều lệ phân định thành phần giai cấp ở nông thôn (số 472-TTg ngày 01-03-1955) của Thủ tướng phủ đã quy định:

"Những người vì tham gia công tác kháng chiến (như cán bộ, bộ đội, viên chức, v.v...) hoặc vì làm nghề khác (như buôn bán, thợ thủ công, nghề tự do, v.v...) hoặc gia định vì mất sức lao động (như già yếu, tàn tật, v.v...) có ít ruộng đất phát canh hoặc thuê người làm, nhưng bình quân chiếm hữu của một nhân khẩu trong gia định họ không quá gấp 3 số bình quân chiếm hữu của mỗi nhân khẩu ở địa phương, thì không gọi là địa chủ, mà gọi là người có ít ruộng đất phát canh hoặc người có ít ruộng đất thuê người làm, hoặc cứ gọi theo thành phần cũ của họ (thí dụ: công nhân, tiểu thương, viên chức v.v...).

"Những gia đình chỉ có một hay hai người, số ruộng đất của mỗi người trong gia đình chưa quá gấp 4 số bình quân chiếm hữu của mỗi nhân khẩu địa phương, thì vẫn không gọi là địa chủ".

Như vậy, theo tinh thần điều quy định trên đây thì đối với người làm nghề khác (buôn bán, thợ thủ công, nghề tự do v.v...) có ruộng đất phát canh hoặc thuê người làm, nếu bình quân chiếm hữu của một nhân khẩu trong gia đình họ quá gấp 3 số bình quân chiếm hữu của một nhân khẩu ở địa phương (hoặc quá gấp 4 nếu là gia đình chỉ có một hay hai người), trong cải cách ruộng đất đã vạch gia đinh đó là người làm nghề khác kiêm địa chủ, thì nay vẫn đúng, không phải sửa lại.

Công tác sửa sai cần tiến hành trên cơ sở chính sách đã quy định, chú không nên thay đổi lại những điều quy định cũ, và cần nhận rõ ta tiến hành sửa sai chứ không phải làm lại cải cách ruộng đất, có như thế công tác sửa sai mới gọn, giảm bớt được khó khăn.

Vì tinh thần đó cho nên Thông tư số 012-TTg đã quy định:

"... một người làm nghề khác có ruộng đất phát canh, binh quân chiếm hữu một nhân khẩu trong gia đình đó quá gấp 3 lần bình quân chiếm hữu của một nhân khẩu địa phương, đáng lẽ chiếu cố nghề nghiệp khác của họ thì không vạch gia đinh này là địa chủ, nhưng trong cải cách ruộng đất đã quy họ là địa chủ, thì nay không coi là cải cách ruộng đất làm sai phải sửa lại thành phần, mà nên cho họ được hay đổi thành phần theo nghề nghiệp của họ. Ruộng đất, tài sản của họ đã trưng mua, nay không phải đền bù lại, trừ trường hợp đã trưng mua quá đáng, làm cho họ gặp khó khăn về sinh sống thì cần điều chỉnh lại một phần nào.

"Nếu rõ ràng họ không đủ tiêu chuẩn là địa chủ, như có nghề khác mà ruộng đất của một nhân khẩu trong gia đình đó không quá gấp 3 lần bình quân chiếm hữu của một nhân khẩu ở địa phương thì phải sửa thành phần của họ".

Nói chung những người làm nghề khác kiêm có ruộng đất phát canh hoặc thuê người làm, mà mức bình quân chiếm hữu của một nhân khẩu trong gia đình đó quá gấp 3 lần mức bình quân chiếm hữu của một nhân khẩu ở địa phương thì mức bóc lột về ruộng đất của họ thường bằng hoặc cao hơn mức bốc lột của phú nông.

Riêng ở một số nơi, do mức bình quân chiếm hữu của một nhân khẩu ở địa phương quá thấp, hoặc vì số nhân khẩu trong gia đình có ít, nên tuy mức bình quân chiếm hữu của một nhân khẩu trong gia đình có quá gấp 3 lần mức bình quân chiếm hữu của một nhân khẩu ở địa phương, nhưng tổng số ruộng đất chiếm hữu của gia đình đó quá ít, mức bóc lột về ruộng đất cũng ít, không bằng mức bóc lột của phú nông (nghĩa là không đến 240 công) thì không nên quy là địa chủ. Nếu trong cải cách ruộng đất đã quy là địa chủ rồi thì nay coi là sai và sửa lại thành phần cho gia đình ấy.

b) Đối với người vừa trồng mía, vừa làm đường thì phải phân biệt hai trường hợp: nếu là người có ruộng trồng mía rồi thuê nhân công kéo mía làm mật, thì phải tính việc bóc lột nhân công kéo mía làm mật gắn liền với nghề trồng mía; song nếu người đó thuê mướn nhân công chế biến từ mật ra đường thì phải tính phần bóc lột nhân công chế biến mật ra đường là phần bóc lột về công thương nghiệp.

Nếu là người chuyên môn mua mía hoặc có trồng ít mía, còn mua thêm về thuê mướn nhân công kéo mía làm mật và chế biến mật ra đường thì người đó là nhà công thương nghiệp.

c) Ở nông thôn, việc chăn tằm là một nghề phụ của nông dân, cho nên không cần tách riêng ra để tính nghề phụ đó là công thương nghiệp. Riêng ở một vài nơi có người kinh doanh về nghề chăn tằm, nếu họ không có hoặc chỉ có rất ít ruộng đất trồng dâu thì coi họ là người làm nghề chăn tằm. Nếu họ có nhiều ruộng đất (trồng dâu hoặc cấy lúa, tám màu) và chuyên bóc lột về ruộng đất ấy thì vạch họ là người làm nghề chăn tằm kiêm địa chủ. Công cụ, nhà cửa dùng vào việc chăn tằm thì không đụng đến, song ruộng đất trồng dâu thì lấy ra đem chia cho nông dân. Để bảo vệ nghề chăn tằm, cần giáo dục cho nông dân tiếp tục trồng dâu bán cho người chăn tằm đó, không nên phá đi trồng thứ khác.

d) Trước đây Thủ tướng phủ đã quy định mức bình quân chiếm hữu của một nhân khẩu ở địa phương là tính theo đơn vị xã khi đang cải cách ruộng đất. Cần thi hành theo quy định đó mà không nên tính theo đơn vị thôn, vì tuy mức bình quân chiếm hữu ruộng đất ở mỗi thôn có chênh lệch nhau, song điều đó không có ảnh hưởng quyết định đến việc vạch thành phần địa chủ.

[...]
3
Chủ quản: Công ty TNHH ThuVienNhaDat. Giấy phép số: đang chạy thử nghiệm. Mã số thuế: 0318679464 Địa chỉ trụ sở: Số 15 Đường 32, Khu Vạn Phúc, P. Hiệp Bình Phước, TP. Thủ Đức, TP. HCM, Việt Nam Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ