Quyết định 714QĐ-TC-CĐKT năm 1962 về chế độ tạm thời về kiểm tra kế toán do Bộ trưởng Bộ Tài Chính ban hành.

Số hiệu 714QĐ-TC-CĐKT
Ngày ban hành 22/11/1962
Ngày có hiệu lực 22/11/1962
Loại văn bản Quyết định
Cơ quan ban hành Bộ Tài chính
Người ký Trịnh Văn Bính
Lĩnh vực Kế toán - Kiểm toán

BỘ TÀI CHÍNH
******

VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 714QĐ-TC-CĐKT

Hà Nội, ngày 22 tháng 11 năm 1962 

 

QUYẾT ĐỊNH

VỀ VIỆC BAN HÀNH CHẾ ĐỘ TẠM THỜI VỀ KIỂM TRA KẾ TOÁN

BỘ TRƯỞNG BỘ TÀI CHÍNH

Căn cứ nghị định số 197-CP ngày 07-11-1961 của Hội đồng Chính phủ quy định nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Bộ Tài chính;
Căn cứ điều 26 của Điều lệ tổ chức kế toán Nhà nước ban hành theo nghị định số 175-CP ngày 28-10-1961 của Hội đồng Chính phủ giao trách nhiệm cho Bộ Tài chính quy định chế độ kiểm tra kế toán.

QUYẾT ĐỊNH:

Điều 1.- Nay ban hành chế độ tạm thời về kiểm tra kế toán kèm theo quyết định này.

Điều 2. - Chế độ tạm thời về kiểm tra kế toán này áp dụng cho tất cả các đơn vị kế toán thuộc các ngành không phân biệt ngành thuộc quyền quản lý trung ương hay địa phương.

Căn cứ vào chế độ kiểm tra kế toán chung này các ngành chủ quản ở trung ương và các Ủy ban hành chính địa phương (khu, tỉnh, thành phố) có thể bổ sung những điều cần thiết cho thích hợp với tình hình cụ thể của ngành mình, của địa phương mình. Những điểm bổ sung đó cần được báo cáo cho Bộ Tài chính biết.

Điều 3. - Chế độ kiểm tra kế toán này bắt đầu thi hành từ ngày ban hành.

 

 

KT. BỘ TRƯỞNG BỘ TÀI CHÍNH
THỨ TRƯỞNG





Trịnh văn Bính

 

CHẾ ĐỘ

TẠM THỜI KIỂM TRA KẾ TOÁN

PHẦN THỨ NHẤT:

Chương 1:

NGUYÊN TẮC CHUNG

Điều 1. - Kiểm tra kế toán là một phương pháp tích cực, có hiệu quả và không thể thiếu được trong việc giám sát kinh tế tài chính của Nhà nước sau khi sự việc đã phát sinh. Kiểm tra kế toán nhằm thúc đẩy việc chấp hành các điều lệ, chế độ kế toán, phát huy tác dụng của công tác kế toán trong việc đôn đốc sử dụng nhân lực, vật lực, tài lực với hiệu suất cao, khai thác mọi khả năng tiềm tàng, đôn đốc chấp hành nghiêm chỉnh kỷ luật tài chính, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí tham ô thúc đẩy hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch Nhà nước.

Điều 2. – Căn cứ vào các điều 24, 25 và 28 của điều lệ tổ chức kế toán Nhà nước, nhiệm vụ của việc kiểm tra kế toán là:

1. Kiểm tra việc tính toán, ghi chép, phản ảnh của kế toán về các mặt: chính xác, kịp thời, đầy đủ, đúng sự thực, rõ ràng, đúng theo chế độ, thể lệ, kiểm tra về các mặt tổ chức, lề lối làm việc, kết quả công tác của bộ máy kế toán.

2. Đề phòng và ngăn chặn những hiện tượng vi phạm nguyên tắc, chế độ thể lệ kế toán nhằm nâng cao tinh thần trách nhiệm của bộ các ngành, các cấp đối với công tác kế toán, phát hiện và phổ biến kịp thời những sáng kiến, kinh nghiệm trong việc chấp hành các chế độ thể lệ kế toán nhằm không ngừng cải tiến nâng cao chất lượng công tác kế toán.

3. Thông qua việc kiểm tra kế toán mà kiểm tra tình hình chấp hành ngân sách, kế hoạch sản xuất kế hoạch thu chi tài vụ, kỷ luật thu nộp, thanh toán. Kiểm tra việc giữ gìn và sử dụng các vật tư và vốn bằng tiền, phát hiện và ngăn ngừa kịp thời những hành động tham ô lãng phí, vi phạm chính sách, chế độ, thể lệ, kỷ luật kinh tế tài chính.

Điều 3. – Theo quy định của điều lệ tổ chức kế toán Nhà nước (Đ.26), tất cả các đơn vị kế toán phải được kiểm tra kế toán thường kỳ đúng như quy định trong chế độ này. Kiểm tra thường kỳ gồm có:

- Kiểm tra thường kỳ trong nội bộ đơn vị theo chức trách nhiệm vụ của kế toán trưởng và tổ chức kế toán như đã quy định trong Điều lệ tổ chức kế toán Nhà nước;

- Kiểm tra thường kỳ ít nhất một năm một lần của đơn vị cấp trên đối với các đơn vị phụ thuộc;

- Kiểm tra thường kỳ của các cơ quan Tài chính.

Điều 4. – Trong từng ngành chủ quản, đơn vị kế toán cấp trên phải đảm bảo kiểm tra toàn diện công tác kế toán của các đơn vị kế toán phụ thuộc do mình trực tiếp quản lý ít nhất một năm một lần ngoài việc tự kiểm tra của bản thân đơn vị đó.

Điều 5. - Để đảm bảo thi hành trong toàn quốc các thể lệ kế toán của Nhà nước, Bộ Tài chính, các cơ quan tài chính địa phương có nhiệm vụ kiểm tra toàn diện công việc kế toán của các cơ quan tài chính phụ thuộc và các đơn vị do mình trực tiếp cấp vốn ít nhất một năm một lần, ngoài công việc kiểm tra thường xuyên của bản thân các đơn vị đó.

[...]