Chủ nhật, Ngày 27/10/2024

Quyết định 1819/QĐ-UBND năm 2018 về Đề án phát triển khoa học và công nghệ tỉnh Vĩnh Long đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030

Số hiệu 1819/QĐ-UBND
Ngày ban hành 27/08/2018
Ngày có hiệu lực 27/08/2018
Loại văn bản Quyết định
Cơ quan ban hành Tỉnh Vĩnh Long
Người ký Lữ Quang Ngời
Lĩnh vực Công nghệ thông tin

ỦY BAN NHÂN DÂN
TỈNH VĨNH LONG
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 1819/QĐ-UBND

Vĩnh Long, ngày 27 tháng 8 năm 2018

 

QUYẾT ĐỊNH

VỀ VIỆC BAN HÀNH ĐỀ ÁN PHÁT TRIỂN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH VĨNH LONG ĐẾN NĂM 2020, TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2030

CHỦ TỊCH ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH VĨNH LONG

Căn cứ Luật Tổ chức chính quyền địa phương ngày 19/6/2015;

Căn cứ Luật Khoa học và Công nghệ, ngày 18/6/2013;

Căn cứ Nghị định số 08/2014/NĐ-CP, ngày 27/01/2014 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Khoa học và Công nghệ;

Căn cứ Quyết định số 1318/QĐ-BKHCN ngày 05/6/2015 của Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ về việc phê duyệt phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ khoa học và công nghệ chủ yếu giai đoạn 2016-2020;

Xét Tờ trình số 409/TTr-SKHCN, ngày 19/6/2018 của Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ về việc ban hành Đề án phát triển khoa học và công nghệ tỉnh Vĩnh Long đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030,

QUYẾT ĐỊNH:

Điều 1. Ban hành kèm theo Quyết định này Đề án phát triển khoa học và công nghệ tỉnh Vĩnh Long đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.

Điều 2. Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với thủ trưởng các sở, ban, ngành tỉnh, Chủ tịch UBND các huyện, thị xã, thành phố và thủ trưởng các cơ quan có liên quan triển khai thực hiện nội dung Đề án theo đúng các quy định hiện hành.

Điều 3. Chánh Văn phòng UBND tỉnh, thủ trưởng các sở, ban, ngành tỉnh, Chủ tịch UBND các huyện, thị xã, thành phố và thủ trưởng các cơ quan có liên quan chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này.

Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký./.

 

 

KT. CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH




Lữ Quang Ngời

 

ĐỀ ÁN

PHÁT TRIỂN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH VĨNH LONG ĐẾN NĂM 2020, TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2030
(Ban hành kèm theo Quyết định số 1819/QĐ-UBND, ngày 27/8/2018 của Chủ tịch UBND tỉnh Vĩnh Long)

Phần I

THỰC TRẠNG KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ GIAI ĐOẠN 2011-2015

I. NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC

- Hoạt động khoa học và công nghệ đã phát triển đúng hướng, từng bước đi vào chiều sâu và hướng về cơ sở. Hoạt động nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao kết quả nghiên cứu đã đạt được nhiều kết quả trên các lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực nông nghiệp - nông thôn, y dược, kỹ thuật - công nghệ, góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hoá và năng lực cạnh tranh của các sản phẩm chủ lực, của doanh nghiệp sản xuất trọng điểm, từ đó đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.

- Tiềm lực khoa học và công nghệ đã được chú trọng tăng cường. Các tổ chức khoa học và công nghệ công lập đã dần nâng cao được hiệu quả hoạt động, từng bước chuyển sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Các tổ chức nghiên cứu và phát triển (R&D) được mở rộng ở các trường đại học, cơ sở nghiên cứu và các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh đã quan tâm đầu tư cho hoạt động khoa học và công nghệ và thu được những kết quả bước đầu. Nhân lực khoa học và công nghệ tăng nhanh cả về số lượng và chất lượng so với giai đoạn trước. Cơ sở vật chất và thiết bị phục vụ công tác nghiên cứu, ứng dụng chuyển giao công nghệ, dịch vụ khoa học và công nghệ tại một số ngành, lĩnh vực đã được đầu tư nâng cấp.

- Hệ thống cơ chế quản lý khoa học và công nghệ được đổi mới, khuyến khích phát triển khoa học và công nghệ.

- Bộ máy quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ từ tỉnh đến huyện đã được tăng cường và ngày càng hoàn thiện, hội đồng khoa học và công nghệ các cấp hoạt động ngày càng có hiệu quả hơn. Quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ đã có những đổi mới tích cực. Hoạt động dịch vụ khoa học và công nghệ trong một số lĩnh vực có hiệu quả tốt, đáp ứng được yêu cầu phục vụ quản lý nhà nước và nhu cầu của các doanh nghiệp.

II. HẠN CHẾ VÀ NGUYÊN NHÂN

1. Hạn chế

- Hoạt động khoa học và công nghệ chưa tạo được sự đột phá trong phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Hoạt động đổi mới công nghệ, thiết bị trong các doanh nghiệp còn chậm. Sản phẩm ứng dụng công nghệ cao còn ít. Chưa có nhiều sản phẩm, công nghệ sản xuất đạt trình độ quốc gia và khu vực.

[...]