Nghị quyết 412/NQ-HĐND năm 2023 nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2024 do tỉnh Hưng Yên ban hành

Số hiệu 412/NQ-HĐND
Ngày ban hành 07/12/2023
Ngày có hiệu lực 07/12/2023
Loại văn bản Nghị quyết
Cơ quan ban hành Tỉnh Hưng Yên
Người ký Trần Quốc Toản
Lĩnh vực Thương mại,Văn hóa - Xã hội

HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN
TỈNH HƯNG YÊN
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 412/NQ-HĐND

Hưng Yên, ngày 07 tháng 12 năm 2023

 

NGHỊ QUYẾT

VỀ NHIỆM VỤ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 2024

HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH HƯNG YÊN
KHÓA XVII KỲ HỌP THỨ MƯỜI TÁM

Căn cứ Luật Tổ chức chính quyền địa phương ngày 19 tháng 6 năm 2015;

Căn cứ Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương ngày 22 tháng 11 năm 2019;

Căn cứ Nghị quyết số 105/2023/QH15 ngày 10 tháng 11 năm 2023 của Quốc hội về việc giao dự toán ngân sách nhà nước năm 2024;

Căn cứ Chỉ thị số 21/CT-TTg ngày 10 tháng 6 năm 2023 của Thủ tướng Chính phủ về xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2024;

Thực hiện Kết luận số 726-KL/TU ngày 05 tháng 12 năm 2023 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XIX, nhiệm kỳ 2020-2025 về kinh tế - xã hội, tài chính, ngân sách nhà nước và đầu tư công năm 2024; điều chỉnh, bổ sung kế hoạch đầu tư công trung hạn 5 năm 2021-2025;

Xét Báo cáo số 198/BC-UBND ngày 04 tháng 12 năm 2023 của Ủy ban nhân dân tỉnh về tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2023; mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp năm 2024; Báo cáo thẩm tra của các Ban Hội đồng nhân dân tỉnh; ý kiến thảo luận và kết quả biểu quyết của các vị đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh tại kỳ họp.

QUYẾT NGHỊ:

Điều 1. Hội đồng nhân dân tỉnh cơ bản tán thành nội dung đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2023 của Ủy ban nhân dân tỉnh và các cơ quan hữu quan.

1. Kết quả chủ yếu

Năm 2023, với quyết tâm phục hồi và phát triển kinh tế, tạo đà phấn đấu hoàn thành mục tiêu kinh tế - xã hội giai đoạn 2021-2025 theo Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX và Nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh; Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân tỉnh, Ủy ban nhân dân tỉnh, các cấp, các ngành cùng toàn thể nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp đã nỗ lực tháo gỡ khó khăn, khôi phục sản xuất, thúc đẩy kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội và đời sống nhân dân, nhờ đó tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh đạt được kết quả tích cực trên tất cả các lĩnh vực.

Tổng sản phẩm (GRDP) tăng 10,05%. Tổng sản phẩm bình quân đầu người đạt 110,4 triệu đồng. Cơ cấu kinh tế: công nghiệp, xây dựng 61,7%; thương mại, dịch vụ 31,3%; nông nghiệp, thủy sản 7%. Chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 6,35%; giá trị sản xuất công nghiệp và xây dựng tăng 7,08%, trong đó xây dựng tăng 14,86%. Dự kiến đầu tư xây dựng được 273 ha hạ tầng Khu công nghiệp. Giải phóng mặt bằng 319,59/428,39 ha cụm công nghiệp (đạt 74,6%); có 03 cụm công nghiệp đã khởi công đầu tư xây dựng hạ tầng với tổng diện tích 202,34 ha. Giá trị sản xuất thương mại, dịch vụ tăng 15,23%; tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ đạt 109.501 tỷ đồng, tăng 74,19%. Giá trị sản xuất nông nghiệp và thủy sản tăng 2,45%; giá trị thu nhập bình quân trên 01 ha đất canh tác đạt 238 triệu đồng. Tình hình chăn nuôi, thủy sản phát triển khá ổn định. Toàn tỉnh có thêm 30 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao, 10 xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu. Thu hút được 87 dự án đầu tư mới với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 14.527 tỷ đồng và 556,97 triệu USD, rà soát thu hồi 20 dự án (8 dự án trong nước và 12 dự án nước ngoài), trong đó có 09 dự án ngoài các khu công nghiệp và 11 dự án trong khu công nghiệp; tổng diện tích thu hồi khoảng 92,8 ha đất. Tổng thu ngân sách ước đạt 33.100 tỷ đồng, đạt 144,6% dự toán, trong đó nếu trừ thu tiền sử dụng đất, thu nội địa đạt 21.196 tỷ đồng, vượt 128,6% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao và tăng 54,9% so với cùng kỳ. Tổng chi ngân sách 21.671,5 tỷ đồng, trong đó: chi đầu tư phát triển đạt 13.500 tỷ đồng, đạt 91,1% kế hoạch; chi thường xuyên 8.171,5 tỷ đồng, bằng 104,6% dự toán giao. Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội vượt kế hoạch đề ra đạt 68.793 tỷ đồng, tăng 24,71% so với năm 2022. Công tác quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường tiếp tục được tăng cường. Hạ tầng giao thông vận tải được quan tâm đầu tư, các công trình giao thông trọng điểm được tập trung đẩy nhanh tiến độ thực hiện. Công tác giáo dục y tế, văn hóa đạt nhiều kết quả tích cực: tỷ lệ phòng học kiên cố đạt 93,58%; tỷ lệ trường đạt chuẩn quốc gia 76,49%; tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế đạt 93,8%; tỷ lệ xã được công nhận đạt chuẩn quốc gia về y tế đạt 30% theo chuẩn mới; có 9,3 bác sỹ và 31 giường bệnh/1 vạn dân. Các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao, lễ hội, tổ chức sự kiện quan trọng được đảm bảo an toàn. Công tác quản lý di sản văn hóa được tăng cường. Công tác an sinh, xã hội được quan tâm thực hiện hiệu quả, thiết thực, tỷ lệ hộ nghèo giảm còn dưới 0,9%, tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt trên 69%; tỷ lệ lao động có bằng cấp, chứng chỉ đạt khoảng 31%; tạo việc làm mới cho 2,4 vạn lao động. Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí được tăng cường. Quốc phòng, quân sự địa phương được đảm bảo; an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững, đời sống nhân dân được nâng lên.

2. Tồn tại, hạn chế

Bên cạnh những kết quả tích cực là chủ yếu, kinh tế - xã hội của tỉnh còn những tồn tại, hạn chế như: một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội năm 2023 chưa đạt kế hoạch, cụ thể: kim ngạch xuất khẩu đạt 5,8 tỷ USD (KH là 7 tỷ USD); số bác sỹ/01 vạn dân bình quân 9,3 (KH là 9,5); GRDP đầu người chỉ đạt 110,4 triệu đồng (KH là 112 triệu đồng); công tác hoàn thiện và trình phê duyệt quy hoạch tỉnh còn lúng túng; chưa hoàn thành phê duyệt kế hoạch sử dụng đất tỉnh thời kỳ 2021-2025; phát triển mở rộng sản xuất công nghiệp tập trung còn chậm so kế hoạch, chất lượng thu hút dự án đầu tư vào một số khu công nghiệp chưa cao; thương mại, dịch vụ, du lịch phát triển chưa tương xứng; việc nâng hạng đô thị và phát triển nhà ở, nhất là nhà ở xã hội còn hạn chế; cơ cấu lại nông nghiệp còn chậm, xây dựng nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu còn nhiều nơi chưa hoàn thiện đầy đủ tiêu chí; công tác giải phóng mặt bằng nhiều dự án còn chậm; giải ngân vốn đầu tư công còn khó khăn và cơ bản chưa đạt kế hoạch; vi phạm pháp luật về đất đai, đầu tư, xây dựng, bảo vệ môi trường, tài chính, ngân sách, tài sản công vẫn còn diễn biến phức tạp, chưa được phát hiện kịp thời và xử lý hiệu quả; ô nhiễm môi trường còn bức xúc, nhất là ô nhiễm tại các làng nghề và hệ thống sông Bắc Hưng Hải; phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo còn hạn chế; an ninh, trật tự xã hội tiềm ẩn yếu tố gây bất ổn định ở một số nơi.

Điều 2. Mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp năm 2024

1. Mục tiêu tổng quát

Năm 2024 là năm có ý nghĩa quyết định thực hiện hoàn thành Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 05 năm 2021-2025 và Nghị quyết Đại hội XIX của Đảng bộ tỉnh, Nghị quyết Đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2020-2025.

Phát triển kinh tế nhanh, vững chắc gắn với giữ vững ổn định xã hội và tăng cường quốc phòng, an ninh, giải quyết kịp thời, hiệu quả các mâu thuẫn, bức xúc trong quá trình phát triển; bảo đảm an sinh xã hội, cải thiện đời sống nhân dân và giảm nghèo bền vững; bảo vệ môi trường sinh thái. Duy trì đà tăng trưởng kinh tế cao, giữ vững ổn định kinh tế, các cân đối kinh tế lớn, tài chính, ngân sách địa phương và kiểm soát hợp lý giá cả hàng hóa. Đẩy mạnh, tạo chuyển biến rõ rệt trong thực hiện 3 đột phá chiến lược về phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội, trọng tâm là hệ thống giao thông, nhất là các công trình, dự án quy mô lớn, trọng điểm mang tính kết nối, có sức lan tỏa rộng, mở rộng không gian phát triển; cải thiện môi trường kinh doanh, đẩy mạnh thu hút đầu tư phù hợp với quy hoạch; phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và xây dựng đội ngũ cán bộ ngang tầm nhiệm vụ. Đẩy mạnh đổi mới, tập trung tháo gỡ các nút thắt, khó khăn, vướng mắc và ban hành các cơ chế, chính sách tạo thuận lợi thu hút đầu tư tư nhân và đầu tư nước ngoài cùng với tăng cường vai trò dẫn dắt của đầu tư công thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh, cơ cấu lại nền kinh tế, nâng cao năng suất lao động. Phát triển mạnh công nghiệp công nghệ cao gắn với đẩy nhanh tốc độ đô thị hóa, hình thành các khu đô thị lớn, sinh thái, hiện đại và phát triển kinh tế đô thị, thương mại, dịch vụ. Tiếp tục sắp xếp, hoàn thiện bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả gắn với tinh giản biên chế, cơ cấu lại và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Phát triển đồng bộ các lĩnh vực văn hóa, y tế, giáo dục, khoa học công nghệ. Tăng cường bảo vệ môi trường, xử lý ô nhiễm môi trường; quản lý chặt chẽ, sử dụng hiệu quả đất đai, tài nguyên và các nguồn lực. Quản lý chặt chẽ, sử dụng hiệu quả đất đai, tài nguyên và các nguồn lực. Đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Bảo đảm quốc phòng, quân sự địa phương và giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.

2. Các chỉ tiêu chủ yếu

2.1. Về kinh tế

(1) Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh theo giá so sánh (GRDP) tăng 7,5-8%, phấn đấu trên 8%;

(2) Chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 8%. Giá trị sản xuất: công nghiệp và xây dựng tăng 8,5-8,7% (trong đó công nghiệp tăng 8,5%; xây dựng tăng: 10%); thương mại, dịch vụ tăng 9%; nông nghiệp, thuỷ sản tăng 2%.

(3) Cơ cấu kinh tế: công nghiệp, xây dựng 63% - thương mại, dịch vụ 30,5% - nông nghiệp, thủy sản 6,5%.

(4) Tổng sản phẩm bình quân đầu người (GRDP/người )121 triệu đồng.

(5) Tổng mức doanh thu bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ 95.000 tỷ đồng; kim ngạch xuất khẩu 7 tỷ USD.

(6) Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội 70.000 tỷ đồng.

[...]