Nghị quyết 137/2008/NQ-HĐND12 về tình hình thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2008 và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2009 do Hội đồng nhân dân tỉnh Lai Châu khóa XII, kỳ họp thứ 13 ban hành
Số hiệu | 137/2008/NQ-HĐND12 |
Ngày ban hành | 05/12/2008 |
Ngày có hiệu lực | 15/12/2008 |
Loại văn bản | Nghị quyết |
Cơ quan ban hành | Tỉnh Lai Châu |
Người ký | Giàng Páo Mỷ |
Lĩnh vực | Văn hóa - Xã hội |
HỘI
ĐỒNG NHÂN DÂN |
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 137/2008/NQ-HĐND12 |
Lai Châu, ngày 05 tháng 12 năm 2008 |
HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH LAI CHÂU
KHOÁ XII, KỲ HỌP THỨ 13
Căn cứ Luật
tổ chức HĐND và UBND ngày 26/11/2003;
Căn cứ Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của HĐND và UBND các cấp ngày
03/12/2004;
Trên cơ sở xem xét báo cáo số 137/BC-UBND ngày 18 tháng 11 năm 2008 của UBND tỉnh
về tình hình thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2008 và kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội năm 2009; Báo cáo thẩm tra của các Ban Hội đồng
nhân dân tỉnh và ý kiến của các Đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh,
QUYẾT NGHỊ:
Điều 1. Hội đồng nhân dân tỉnh tán thành Báo cáo đánh giá tình hình thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2008 và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2009 được nêu trong báo cáo của Uỷ ban nhân dân với những nội dung chính như sau:
I. ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN NHIỆM VỤ NĂM 2008
1. Những kết quả chủ yếu trong năm 2008.
Nền kinh tế tiếp tục phát triển, tốc độ tăng trưởng duy trì ở mức cao, cơ cấu nền kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, đặc biệt chương trình phát triển cây cao su đã tạo ra hướng chuyển đổi mới về cơ cấu cây trồng trong nông nghiệp. Sản xuất nông nghiệp đạt được kết quả khả quan, năng suất các cây trồng vụ Đông Xuân, vụ mùa tăng so năm trước, an ninh lương thực được đảm bảo. Sản xuất công nghiệp có bước chuyển biến tích cực, thu hút được nhiều đơn vị tham gia vào lĩnh vực sản xuất vật liệu xây dựng. Hoạt động thương mại có bước phát triển, mạng lưới phân phối được mở rộng. Hệ thống nhà hàng, khách sạn, siêu thị, phát triển nhanh; chất lượng các hoạt động dịch vụ như thương mại, du lịch, vận tải, bưu chính viễn thông, từng bước được nâng lên, cơ bản đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người dân.
Huy động được nhiều nguồn vốn cho đầu tư phát triển, nguồn lực đa dạng hơn. Thu ngân sách nhà nước trên địa bàn tăng cao và vượt dự toán giao.
Lĩnh vực văn hóa, xã hội được quan tâm toàn diện, phong trào xây dựng đời sống văn hóa cơ sở được duy trì và phát triển khá. Công tác xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm, xuất khẩu lao động đã được quan tâm chỉ đạo thực hiện, góp phần ổn định đời sống nhân dân. Thực hiện tốt các chính sách xã hội, nhất là cho người nghèo, các gia đình chính sách, các dân tộc đặc biệt khó khăn.
Quốc phòng được củng cố, an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội tiếp tục được giữ vững, phát hiện, ngăn ngừa, và giải quyết kịp thời việc di dịch cư tự do và tuyên truyền đạo trái pháp luật.
2. Những khó khăn, hạn chế.
Năm 2008 tình hình kinh tế - xã hội vẫn còn nổi lên nhiều khó khăn, hạn chế đó là:
Kinh tế phát triển chưa đồng đều, chưa bền vững; lạm phát tăng cao, thiên tai, dịch bệnh, đã ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống của nhân dân.
Sản xuất nông nghiệp gặp nhiều bất lợi, thời tiết xấu, tình hình dịch bệnh trên cây trồng, vật nuôi diễn biến phức tạp. Quy mô sản xuất công nghiệp còn nhỏ lẻ, công nghệ sản xuất còn lạc hậu.
Đầu tư xây dựng cơ bản gặp nhiều khó khăn: Thời tiết không thuận lợi ảnh hưởng biến động giá cả nguyên vật liệu, tiền nhân công tăng cao, nguồn vốn đầu tư hạn chế; công tác đền bù giải phóng mặt bằng còn nhiều vướng mắc. Tình trạng công trình chậm tiến độ chưa được khắc phục.
Một số lĩnh vực về xã hội còn nhiều bất cập, chất lượng giáo dục tuy có những tiến bộ nhưng còn chênh lệch giữa các vùng trong tỉnh. Mức giảm tỷ lệ sinh thấp so với kế hoạch, tỷ lệ bà mẹ sinh con thứ 3 tăng cao. Tỷ lệ hộ có nguy cơ tái nghèo và phát sinh hộ nghèo mới còn cao.
Việc giải quyết một số vấn đề bức xúc của xã hội còn chậm, kết quả hạn chế. Tình trạng đơn khiếu nại, tố cáo và vụ việc tranh chấp đất đai tăng. Hiệu quả công tác cai nghiện ma túy thấp.
Chương trình cải cách hành chính triển khai chậm, thiếu quyết liệt, chưa đồng bộ. Hoạt động của bộ phận “một cửa” và “một cửa liên thông” hiệu quả chưa cao.
Một số chỉ tiêu chủ yếu không đạt so với kế hoạch đề ra: tốc độ tăng trưởng; diện tích trồng mới cây chè; tỷ lệ tăng đàn đại gia súc; dân số trung bình; mức giảm tỷ lệ sinh; số xã có điện và tỷ lệ hộ được sử dụng điện; tổ chức cai nghiện ma túy; tỷ lệ che phủ rừng.
II. MỤC TIÊU VÀ CÁC CHỈ TIÊU CHỦ YẾU CỦA KẾ HOẠCH 2009
1. Mục tiêu tổng quát.
Duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế gắn với thực hiện đồng bộ các giải pháp kiềm chế lạm phát, bảo đảm an sinh xã hội; tạo môi trường đầu tư thuận lợi, thông thoáng để thu hút mạnh các nguồn lực đầu tư nhằm khai thác tối đa tiềm năng và lợi thế của tỉnh, tạo ra nhiều sản phẩm hàng hóa, tăng nhanh sản phẩm xã hội, tăng thu ngân sách địa phương. Đẩy nhanh tiến độ xây dựng các dự án trọng điểm và các dự án sử dụng nguồn Trái phiếu Chính phủ,... Nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực; đẩy mạnh công tác xoá đói, giảm nghèo, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững, đảm bảo an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Phấn đấu năm 2009, hoàn thành cơ bản các chỉ tiêu Đại hội Đảng bộ Tỉnh lần thứ XI.
2. Các chỉ tiêu chủ yếu.
2.1. Các chỉ tiêu kinh tế.
(1). Phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng GDP từ 14-15%, trong đó ngành nông, lâm, thủy sản tăng 4-4,5%; Ngành công nghiệp, xây dựng tăng 24-24,5%; Ngành thương mại, dịch vụ tăng 16,5-17%.
Cơ cấu kinh tế: Nông, lâm nghiệp, thủy sản - Công nghiệp - Dịch vụ là 32,7 - 35,8 - 31,5(%).