Chủ nhật, Ngày 27/10/2024

Nghị định 56-HĐBT năm 1989 hướng dẫn Pháp lệnh Nghĩa vụ lao động công ích do Hội đồng Bộ trưởng ban hành

Số hiệu 56-HĐBT
Ngày ban hành 30/05/1989
Ngày có hiệu lực 30/05/1989
Loại văn bản Nghị định
Cơ quan ban hành Hội đồng Bộ trưởng
Người ký Võ Văn Kiệt
Lĩnh vực Lao động - Tiền lương,Quyền dân sự,Văn hóa - Xã hội

HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG
********

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 56-HĐBT

Hà Nội, ngày 30 tháng 5 năm 1989

 

NGHỊ ĐỊNH

CỦA HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG SỐ 56-HĐBT NGÀY 30-5-1989 QUY ĐỊNH CHI TIẾT THI HÀNH PHÁP LỆNH NGHĨA VỤ LAO ĐỘNG CÔNG ÍCH

HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG

Căn cứ Luật tổ chức Hội đồng Bộ trưởng ngày 4-7-1981;
Căn cứ điều 25 của Pháp lệnh nghĩa vụ lao động công ích
ngày 10 tháng 11 năm 1988;
Theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và xã hội,

NGHỊ ĐỊNH:

I- ĐỐI TƯỢNG, HÌNH THỨC THỰC HIỆN NGHĨA VỤ LAO ĐỘNG CÔNG ÍCH HÀNG NĂM

Điều 1. - Những đối tượng được miễn, tạm miễn, giảm ngày công lao động nghĩa vụ công ích hàng năm theo các điều 10, 11, 12, của Pháp lệnh được quy ước cụ thể như sau:

1. Những người giữ chức sắc tôn giáo sau đây được miễn thực hiện nghĩa vụ lao động công ích hàng năm:

- Đại đức, Hoà thượng, Thượng toạ (đối với đạo phật).

- Linh mục, giám mục, hoặc đứng đầu các dòng tu (đối với thiên chúa

giáo).

- Giảng sư, mục sư (đối với đạo tin lành).

2. Người đi lao động, học tập, công tác ở nước ngoài từ một năm trở lên, được tạm miễn làm nghĩa vụ lao động công ích trong thời gian lao động, học tập, công tác ở nước ngoài.

3. Quân nhân dự bị, dân quân tự vệ làm nhiệm vụ kiểm tra sẵn sàng chiến đấu, trực chiến hoặc truy bắt biệt kích, thám báo, do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, gọi tắt là huyện (đối với vùng biên giới, hải đảo do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã, hoặc đơn vị hành chính tương đương gọi tắt là xã) trở lên điều động thì số ngày làm nhiệm vụ nói trên được trừ vào số ngày công lao động công ích ghi trong lệnh huy động đối với bản thân quân nhân dự bị, dân quân tự vệ đó.

Điều 2. - Người được huy động làm nghĩa vụ lao động công ích hàng năm phải trực tiếp làm là chính. Nếu vì hoàn cảnh nào đó không thể trực tiếp làm lao động công ích được thì thuê người làm thay. Khi thuê người làm thay, người được huy động và người làm thay phải có giao kèo quy định rõ trách nhiệm và quyền lợi của mỗi bên, đồng thời phải báo cho cơ quan huy động biết, làm cơ sở pháp lý để giải quyết khi có tranh chấp. Trường hợp không tự thuê người làm thay thì đề nghị với Uỷ ban nhân dân xã hoặc cơ quan, xí nghiệp cho nộp một số tiền để thuê người làm thay số ngày công lao động ghi trong lệnh huy động, theo giá tiền công ở địa phương.

Điều 3. - Việc quản lý và sử dụng tiền do người có nghĩa vụ lao động công ích hàng năm đóng góp thay cho đi làm trực tiếp được tiến hành như sau:

1. Uỷ ban nhân dân xã, cơ quan, xí nghiệp có trách nhiệm thu tiền của người có nghĩa vụ lao động công ích hàng năm đóng góp thay cho đi làm trực tiếp, khi thu tiền phải cấp biên lai cho người đã nộp tiền; số tiền thu được phải nộp đầy đủ, kịp thời cho Uỷ ban nhân dân huyện.

Cấm thu tiền trước khi có lệnh huy động hoặc khi chưa được sự đồng ý của người được huy động.

2. Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố, đặc khu trực thuộc Trung ương (gọi tắt là tỉnh) căn cứ giá tiền công ở địa phương, quy định mức tiền phải nộp của một ngày lao động nghĩa vụ công ích hàng năm để thực hiện việc thu tiền đối với người nộp tiền thay cho trực tiếp làm công ích hàng năm; trực tiếp quản lý số tiền thu được hàng năm để điều hoà chung trong địa phương, đầu tư cho các công trình được sử dụng lao động công ích hàng năm theo kế hoạch (sau khi đã trừ số ngày công lao động trực tiếp) để công trường thuê người làm thay.

Uỷ ban nhân dân tỉnh được trích 5% số tiền thu được để chi cho công tác tổ chức huy động nghĩa vụ lao động công ích hàng năm theo hướng dẫn của liên Bộ Lao động - Thương binh và xã hội - Tài chính. Biên lai thu tiền do Bộ Tài chính thống nhất quản lý và phát hành.

Điều 4. - Để sử dụng hợp lý, tiết kiệm lực lượng lao động xã hội và quỹ ngày công lao động công ích hàng năm, tạo điều kiện cho công dân thực hiện tốt nghĩa vụ lao động công ích, hạn chế những ảnh hưởng không tốt đến sản xuất, công tác, học tập của công dân, cơ quan, xí nghiệp; khi huy động sử dụng lao động theo nghĩa vụ lao động công ích hàng năm, cơ quan huy động phải chú ý:

1. Tổ chức các đội lao động công ích chuyên trách hoặc bán chuyên trách của địa phương, đơn vị để làm thay cho những người có nghĩa vụ lao động công ích mà không trực tiếp đi làm được.

2. Tránh điều động những người làm nông nghiệp, lâm nghiệp, nghề cá, nghề muối trực tiếp tham gia lao động công ích vào lúc thời vụ sản xuất khẩn trương.

3. Đối với giáo viên, công nhân viên và học sinh các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề thì huy động trực tiếp đi làm vào thời gian nghỉ hè hoặc thời gian nghỉ giữa hai kỳ học.

4. Đối với những người đang làm việc trong các cơ quan, xí nghiệp, các hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp thì thủ trưởng và người đại diện cơ quan, đơn vị thoả thuận trước với cơ quan huy động sở tại để thống nhất hình thức, thời điểm huy động lao động theo nghĩa vụ lao động công ích hàng năm, tránh ảnh hưởng đến sản xuất, công tác và hoạt động của cơ quan, đơn vị.

5. Đối với những người có nghề chuyên môn kỹ thuật như kỹ sư, bác sĩ, thợ kỹ thuật... cần xét bố trí làm những công việc có thể sử dụng được chuyên môn kỹ thuật của họ.

Điều 5. - Chỉ được huy động sử dụng lao động theo nghĩa vụ lao động công ích hàng năm làm những công việc quy định tại điều 6 của Pháp lệnh, cụ thể là:

1. Xây dựng mới, tu bổ đê, kè, cống bao gồm đê sông, đê biển, đê bảo vệ thành phố, khu công nghiệp.

[...]