Công văn 3564/LĐTBXH-PC năm 2018 kiến nghị tháo gỡ vướng mắc, bất cập của doanh nghiệp thủy sản về lĩnh vực lao động - bảo hiểm xã hội - kinh phí công đoàn Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành

Số hiệu 3564/LĐTBXH-PC
Ngày ban hành 29/08/2018
Ngày có hiệu lực 29/08/2018
Loại văn bản Công văn
Cơ quan ban hành Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
Người ký Doãn Mậu Diệp
Lĩnh vực Doanh nghiệp,Bảo hiểm,Lao động - Tiền lương

BỘ LAO ĐỘNG - THƯƠNG BINH VÀ XÃ HỘI
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 3564/LĐTBXH-PC
V/v trả lời các kiến nghị vướng mắc, bất cập của Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam

Hà Nội, ngày 29 tháng 8 năm 2018

 

Kính gửi: Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam

Ngày 26/01/2018, Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam có Công văn số 22/2018/CV-VASEP về việc kiến nghị tháo gỡ vướng mắc, bất cập của doanh nghiệp thủy sản về lĩnh vực lao động - BHXH - kinh phí công đoàn, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội trả lời về các kiến nghị như sau:

I. Kiến nghị về đẩy nhanh việc sửa đổi, bổ sung Bộ luật Lao động

Theo Nghị quyết số 22/2016/QH14 của Quốc hội khóa XIV và Quyết định số 1840/QĐ-TTg ngày 23/9/2016 của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội được giao xây dựng dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Lao động, trình Quốc hội cho ý kiến vào kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa 14. Tuy nhiên, ngày 24/3/2017, Tổng thư ký Quốc hội có Công văn số 525/TTKQH14-PL thông báo ý kiến của Ủy ban thường vụ Quốc hội về việc đưa dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Lao động ra khỏi chương trình kỳ họp thứ 3 để tiếp tục nghiên cứu, chuẩn bị theo hướng sửa đổi toàn diện Bộ luật Lao động, khi có đủ điều kiện thì chuẩn bị hồ sơ đề nghị bổ sung dự án Bộ luật Lao động (sửa đổi) vào chương trình theo quy định tại Điều 37 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015,

Theo đó, thực hiện theo Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã chuẩn bị hồ sơ đề nghị xây dựng Bộ luật Lao động (sửa đổi) để trình Chính phủ, trình Quốc hội đưa vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2019.

Tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa XIV đã thông qua Nghị quyết số 57/2018/QH14 về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2019, trong đó: Dự án Bộ luật Lao động (sửa đổi) trình Quốc hội cho ý kiến vào kỳ họp thứ 7 (họp tháng 5/2019) và thông qua tại kỳ họp thứ 8 (họp tháng 10/2019).

Ngày 28/6/2018, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 792/QĐ-TTg về việc phân công cơ quan chủ trì soạn thảo, thời hạn trình các dự án luật được điều chỉnh trong Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2018, các dự án luật, pháp lệnh thuộc Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2019; Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội được giao chủ trì soạn thảo Dự án Bộ luật Lao động (sửa đổi), trình Chính phủ vào tháng 01/2019.

Hiện nay, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đang trong quá trình xây dựng, soạn thảo dự án Bộ luật Lao động (sửa đổi). Đề nghị quý Hiệp hội theo dõi và đóng góp ý kiến vào dự thảo Bộ luật Lao động (sửa đổi). Dự kiến dự thảo Bộ luật Lao động (sửa đổi) sẽ đăng website vào cuối tháng 9/2018 và trình Chính phủ vào tháng 12/2018.

II. Những kiến nghị về bảo hiểm xã hội

1. Về ý kiến cho rằng tỷ lệ đóng BHXH của Việt Nam cao và kiến nghị giảm tỷ lệ đóng BHXH 4% trở về mức đóng BHXH năm 2010 (doanh nghiệp đóng 16% và người lao động đóng 6%)

Chính sách bảo hiểm xã hội ở mỗi quốc gia được thiết kế khác nhau và phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, lịch sử của mỗi nước. Chính vì vậy, rất khó để so sánh, đánh giá tỷ lệ đóng bảo hiểm xã hội của một nước là cao hay thấp so với những nước còn lại vì nó phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác nhau. Việc đánh giá tỷ lệ đóng bảo hiểm xã hội cần được xem xét trong mối quan hệ với quyền lợi hưởng các chế độ, các yếu tố kinh tế vĩ mô như sự phát triển kinh tế, GDP bình quân đầu người, cơ cấu kinh tế, sự phát triển của thị trường lao động, chi phí lao động...

Xét về tỷ lệ đóng bảo hiểm xã hội thì Việt Nam là một trong những nước có tỷ lệ đóng bảo hiểm xã hội cao trong khu vực với tỷ lệ đóng là 27,5% (không tính bảo hiểm y tế), tuy nhiên cũng có một số nước có mức đóng cao hơn Việt Nam như Singapore là 37%, Trung Quốc là 38,5% và Ấn Độ là 35%. Bên cạnh đó, theo số liệu thống kê cũng cho thấy tiền lương làm căn cứ đóng BHXH bắt buộc của Việt Nam thấp hơn nhiều so với tiền lương thực tế của người lao động (nhiều doanh nghiệp tiền lương đóng chỉ bằng khoảng 50% tiền lương thực tế của người lao động). Trong khi đó, tỷ lệ hưởng các chế độ BHXH của Việt Nam được đánh giá cao hơn nhiều so với các nước, đặc biệt là đối với chế độ hưu trí, chế độ thai sản,..

Trong thời gian qua, thực hiện các Nghị quyết của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia; về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020; Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã phối hợp với các Bộ, ngành liên quan tiến hành đánh giá tỷ lệ đóng, hưởng của các quỹ bảo hiểm xã hội, trên cơ sở đó đã trình Chính phủ ban hành Nghị định số 44/2017/NĐ-CP ngày 14/4/2017 quy định giảm mức đóng vào quỹ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp cho doanh nghiệp từ 1% xuống còn 0,5% từ ngày 01/6/2017.

Ngày 23/5/2018, Ban Chấp hành Trung ương khóa XII đã ban hành Nghị quyết số 28/NQ-TW về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội, trong đó có nội dung cải cách về điều chỉnh tỷ lệ đóng như sau: “... Nghiên cứu điều chỉnh tỷ lệ đóng vào Quỹ bảo hiểm xã hội theo hướng hài hòa quyền lợi giữa người sử dụng lao động và người lao động”. Do vậy, trong thời gian tới Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội sẽ bám sát nội dung cải cách nêu trên của Nghị quyết số 28/NQ-TW để tiếp tục phối hợp với các Bộ, ngành liên quan nghiên cứu, đánh giá và đề xuất phương án phù hợp báo cáo Chính phủ, Quốc hội.

2. Về tham gia bảo hiểm xã hội cho người lao động làm việc dưới 3 tháng

Để cụ thể hóa quan điểm của Đảng, Nhà nước về mở rộng diện bao phủ tham gia BHXH và bảo đảm quyền thụ hưởng chế độ BHXH của người lao động, Luật BHXH năm 2014 đã bổ sung đối tượng tham gia BHXH bắt buộc đối với người lao động làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 01 tháng đến dưới 03 tháng.

Việc quy định đối tượng tham gia BHXH bắt buộc đối với người lao động làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 01 tháng đến dưới 03 tháng nhằm đảm bảo quyền thụ hưởng các chế độ BHXH khi nhóm đối tượng này bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp trong quá trình lao động, đồng thời tích lũy quá trình đóng bảo hiểm xã hội trong quá trình làm việc để đủ điều kiện hưởng lương hưu khi hết tuổi lao động (thời gian đóng BHXH không liên tục thì được cộng dồn). Mặt khác, việc quy định bổ sung đối tượng tham gia BHXH bắt buộc đối với người lao động làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 01 tháng đến dưới 03 tháng không làm tăng chi phí cho các doanh nghiệp, bởi theo quy định tại Khoản 3 Điều 186 Bộ luật Lao động thì trước ngày 01/01/2018 người lao động làm việc theo hợp đồng lao động từ đủ 01 đến dưới 03 tháng không thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc thì người sử dụng lao động phải có trách nhiệm chi trả thêm cùng lúc với kỳ trả lương của người lao động một khoản tiền cho người lao động tương ứng với mức đóng BHXH.

3. Về tỷ lệ hưởng lương hưu đối với lao động nữ

Về vấn đề này, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã phối hợp với các cơ quan liên quan rà soát, đánh giá tác động và báo cáo Chính phủ có Tờ trình số 231/TTr-CP ngày 14/5/2018 báo cáo Quốc hội.

Ngày 15/6/2018, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 64/2018/QH14, trong đó giao Chính phủ ban hành quy định thực hiện chính sách điều chỉnh lương hưu đối với lao động nữ bắt đầu hưởng lương hưu từ ngày 01/01/2018 đến ngày 31/12/2021 bị tác động bất lợi hơn so với lao động nam do thay đổi cách tính lương hưu.

Ngày 13/7/2018, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội có Công văn số 2830/LĐTBXH-BHXH gửi một số Bộ, ngành, cơ quan xin ý kiến về dự thảo Nghị định về việc điều chỉnh lương hưu đối với số lao động nữ bắt đầu hưởng lương hưu trong giai đoạn từ năm 2018 đến năm 2021. Hiện nay, Bộ LĐTBXH đang tổng hợp ý kiến tham gia của các Bộ, ngành, cơ quan trước khi trình Chính phủ xem xét, ban hành.

4. Về tỷ lệ giảm trừ cho mỗi năm về hưu trước tuổi đối với ngành sử dụng nhiều lao động như thủy sản, dệt may, điện tử ... từ 2% xuống 1%.

Để đảm bảo tốt hơn nguyên tắc đóng - hưởng, sự bền vững lâu dài của quỹ hưu trí và tử tuất và sự công bằng trong tham gia và thụ hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội, Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 đã sửa đổi, bổ sung nhiều quy định trong cách tính đóng, hưởng của chế độ hưu trí, trong đó có quy định tăng tỷ lệ giảm trừ tỷ lệ hưởng lương hưu do nghỉ hưu trước tuổi từ 1% lên 2% cho mỗi năm nghỉ hưu trước tuổi so với Luật BHXH năm 2006.

Thực tế, theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội trước Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 thì người lao động có từ đủ 20 năm đóng BHXH trở lên và bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên thì được nghỉ việc hưởng lương hưu sớm hơn tối đa 10 tuổi so với đối tượng khác và tỷ lệ giảm trừ chỉ là 1% cho mỗi năm nghỉ hưu trước tuổi. Quy định này không đảm bảo nguyên tắc đóng - hưởng, khi tính hưởng lương hưu thì mỗi năm đóng BHXH người lao động được tính 3% đối với nữ và 2,5% đối với nam nhưng khi nghỉ hưu trước tuổi thì mỗi năm nghỉ bị trừ 1% (Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) khuyến nghị và nhiều nước thực hiện trừ 5-6% cho mỗi năm nghỉ hưu trước tuổi quy định), trong khi đó người lao động nghỉ hưu trước tuổi thì sẽ hưởng lương hưu sớm hơn và dừng đóng vào quỹ sớm hơn so với các đối tượng khác, Theo số liệu thống kê những năm qua cho thấy, trong tổng số những người nghỉ việc hưởng lương hưu thì có khoảng 60% người nghỉ hưu trước tuổi; tuy nhiên, nhiều; điều tra cho thấy nhiều người lao động sau khi xin nghỉ hưu sớm do suy giảm khả năng lao động sau đó vẫn tiếp tục làm việc (không phải đóng BHXH).

Chính vì vậy, việc Luật bảo hiểm xã hội năm 2014 quy định tăng tỷ lệ giảm trừ tỷ lệ hưởng lương hưu do nghỉ hưu trước tuổi từ 1% lên 2% cho mỗi năm nghỉ hưu trước tuổi là phù hợp. Mặt khác, Luật bảo hiểm xã hội cũng đã quy định đối với người lao động làm nghề hoặc công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm thì được nghỉ hưu sớm hơn lao động làm việc trong điều kiện bình thường tối đa là 5 tuổi mà không phải trừ tỷ lệ % hưởng lương hưu do nghỉ hưu trước tuổi quy định.

5. Về việc không nên khống chế mức đóng BHXH tối đa

Bảo hiểm xã hội là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết trên cơ sở đóng vào quỹ bảo hiểm xã hội. Mức hưởng bảo hiểm xã hội được tính trên cơ sở mức đóng, thời gian đóng bảo hiểm xã hội và có chia sẻ giữa những người tham gia bảo hiểm xã hội.

Bảo hiểm xã hội là chính sách của Nhà nước, quỹ bảo hiểm xã hội được nhà nước bảo hộ. Nhà nước bảo hộ quỹ nhằm đảm bảo cho người lao động được thụ hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội ở mức cơ bản. Ngoài ra, nếu có điều kiện và nhu cầu thì người lao động, người sử dụng lao động có thể tham gia các loại hình bảo hiểm khác để được mức thụ hưởng cao hơn. Chính vì vậy, Luật bảo hiểm xã hội năm 2006 đã quy định mức trần tiền lương tháng đóng BHXH bắt buộc cao nhất bằng 20 tháng lương tối thiểu chung (nay là mức lương cơ sở) và được kế thừa tiếp tục quy định trong Luật bảo hiểm xã hội năm 2014.

[...]