Kính gửi: Hiệp
hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam
Ngày 26/01/2018, Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy
sản Việt Nam có Công văn số 22/2018/CV-VASEP về việc kiến nghị tháo gỡ vướng mắc,
bất cập của doanh nghiệp thủy sản về lĩnh vực lao động - BHXH - kinh phí công
đoàn, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội trả lời về các kiến nghị như sau:
I. Kiến nghị về đẩy nhanh việc sửa
đổi, bổ sung Bộ luật Lao động
Theo Nghị quyết số 22/2016/QH14 của Quốc hội khóa
XIV và Quyết định số 1840/QĐ-TTg ngày 23/9/2016 của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Lao
động - Thương binh và Xã hội được giao xây dựng dự án Luật sửa đổi, bổ sung một
số điều của Bộ luật Lao động, trình Quốc hội cho ý kiến vào kỳ họp thứ 3 Quốc hội
khóa 14. Tuy nhiên, ngày 24/3/2017, Tổng thư ký Quốc hội có Công văn số
525/TTKQH14-PL thông báo ý kiến của Ủy ban thường vụ Quốc hội về việc đưa dự án
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Lao động ra khỏi chương trình kỳ
họp thứ 3 để tiếp tục nghiên cứu, chuẩn bị theo hướng sửa đổi toàn diện Bộ luật
Lao động, khi có đủ điều kiện thì chuẩn bị hồ sơ đề nghị bổ sung dự án Bộ luật
Lao động (sửa đổi) vào chương trình theo quy định tại Điều 37
Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015,
Theo đó, thực hiện theo Luật ban hành văn bản quy
phạm pháp luật năm 2015, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã chuẩn bị hồ sơ
đề nghị xây dựng Bộ luật Lao động (sửa đổi) để trình Chính phủ, trình Quốc hội
đưa vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2019.
Tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa XIV đã thông qua Nghị
quyết số 57/2018/QH14 về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2019, trong
đó: Dự án Bộ luật Lao động (sửa đổi) trình Quốc hội cho ý kiến vào kỳ họp thứ 7
(họp tháng 5/2019) và thông qua tại kỳ họp thứ 8 (họp tháng 10/2019).
Ngày 28/6/2018, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết
định số 792/QĐ-TTg về việc phân công cơ quan chủ trì soạn thảo, thời hạn trình
các dự án luật được điều chỉnh trong Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm
2018, các dự án luật, pháp lệnh thuộc Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm
2019; Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội được giao chủ trì soạn thảo Dự án Bộ
luật Lao động (sửa đổi), trình Chính phủ vào tháng 01/2019.
Hiện nay, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đang
trong quá trình xây dựng, soạn thảo dự án Bộ luật Lao động (sửa đổi). Đề nghị
quý Hiệp hội theo dõi và đóng góp ý kiến vào dự thảo Bộ luật Lao động (sửa đổi).
Dự kiến dự thảo Bộ luật Lao động (sửa đổi) sẽ đăng website vào cuối tháng
9/2018 và trình Chính phủ vào tháng 12/2018.
II. Những kiến nghị về bảo hiểm
xã hội
1. Về ý kiến cho rằng tỷ lệ
đóng BHXH của Việt Nam cao và kiến nghị giảm tỷ lệ đóng BHXH 4% trở về mức đóng
BHXH năm 2010 (doanh nghiệp đóng 16% và người lao động đóng 6%)
Chính sách bảo hiểm xã hội ở mỗi quốc gia được thiết
kế khác nhau và phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, lịch sử của mỗi nước. Chính vì
vậy, rất khó để so sánh, đánh giá tỷ lệ đóng bảo hiểm xã hội của một nước là
cao hay thấp so với những nước còn lại vì nó phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố
khác nhau. Việc đánh giá tỷ lệ đóng bảo hiểm xã hội cần được xem xét trong mối
quan hệ với quyền lợi hưởng các chế độ, các yếu tố kinh tế vĩ mô như sự phát
triển kinh tế, GDP bình quân đầu người, cơ cấu kinh tế, sự phát triển của thị
trường lao động, chi phí lao động...
Xét về tỷ lệ đóng bảo hiểm xã hội thì Việt Nam là một
trong những nước có tỷ lệ đóng bảo hiểm xã hội cao trong khu vực với tỷ lệ đóng
là 27,5% (không tính bảo hiểm y tế), tuy nhiên cũng có một số nước có mức đóng
cao hơn Việt Nam như Singapore là 37%, Trung Quốc là 38,5% và Ấn Độ là 35%. Bên
cạnh đó, theo số liệu thống kê cũng cho thấy tiền lương làm căn cứ đóng BHXH bắt
buộc của Việt Nam thấp hơn nhiều so với tiền lương thực tế của người lao động
(nhiều doanh nghiệp tiền lương đóng chỉ bằng khoảng 50% tiền lương thực tế của
người lao động). Trong khi đó, tỷ lệ hưởng các chế độ BHXH của Việt Nam được
đánh giá cao hơn nhiều so với các nước, đặc biệt là đối với chế độ hưu trí, chế
độ thai sản,..
Trong thời gian qua, thực hiện các Nghị quyết của
Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh,
nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia; về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến
năm 2020; Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã phối hợp với các Bộ, ngành
liên quan tiến hành đánh giá tỷ lệ đóng, hưởng của các quỹ bảo hiểm xã hội,
trên cơ sở đó đã trình Chính phủ ban hành Nghị định số 44/2017/NĐ-CP ngày
14/4/2017 quy định giảm mức đóng vào quỹ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp cho doanh nghiệp từ 1% xuống còn 0,5% từ ngày 01/6/2017.
Ngày 23/5/2018, Ban Chấp hành Trung ương khóa XII
đã ban hành Nghị quyết số 28/NQ-TW về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội,
trong đó có nội dung cải cách về điều chỉnh tỷ lệ đóng như sau: “... Nghiên
cứu điều chỉnh tỷ lệ đóng vào Quỹ bảo hiểm xã hội theo hướng hài hòa quyền lợi
giữa người sử dụng lao động và người lao động”. Do vậy, trong thời gian tới
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội sẽ bám sát nội dung cải cách nêu trên của
Nghị quyết số 28/NQ-TW để tiếp tục phối hợp với các Bộ, ngành liên quan nghiên
cứu, đánh giá và đề xuất phương án phù hợp báo cáo Chính phủ, Quốc hội.
2. Về tham gia bảo hiểm xã hội
cho người lao động làm việc dưới 3 tháng
Để cụ thể hóa quan điểm của Đảng, Nhà nước về mở rộng
diện bao phủ tham gia BHXH và bảo đảm quyền thụ hưởng chế độ BHXH của người lao
động, Luật BHXH năm 2014 đã bổ sung đối tượng tham gia BHXH bắt buộc đối với
người lao động làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 01 tháng đến
dưới 03 tháng.
Việc quy định đối tượng tham gia BHXH bắt buộc đối
với người lao động làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 01 tháng đến
dưới 03 tháng nhằm đảm bảo quyền thụ hưởng các chế độ BHXH khi nhóm đối tượng
này bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp trong quá trình lao
động, đồng thời tích lũy quá trình đóng bảo hiểm xã hội trong quá trình làm việc
để đủ điều kiện hưởng lương hưu khi hết tuổi lao động (thời gian đóng BHXH
không liên tục thì được cộng dồn). Mặt khác, việc quy định bổ sung đối tượng
tham gia BHXH bắt buộc đối với người lao động làm việc theo hợp đồng lao động
có thời hạn từ đủ 01 tháng đến dưới 03 tháng không làm tăng chi phí cho các
doanh nghiệp, bởi theo quy định tại Khoản 3 Điều 186 Bộ luật Lao
động thì trước ngày 01/01/2018 người lao động làm việc theo hợp đồng lao động
từ đủ 01 đến dưới 03 tháng không thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc thì người
sử dụng lao động phải có trách nhiệm chi trả thêm cùng lúc với kỳ trả lương của
người lao động một khoản tiền cho người lao động tương ứng với mức đóng BHXH.
3. Về tỷ lệ hưởng lương hưu đối
với lao động nữ
Về vấn đề này, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
đã phối hợp với các cơ quan liên quan rà soát, đánh giá tác động và báo cáo
Chính phủ có Tờ trình số 231/TTr-CP ngày 14/5/2018 báo cáo Quốc hội.
Ngày 15/6/2018, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số
64/2018/QH14, trong đó giao Chính phủ ban hành quy định thực hiện chính sách điều
chỉnh lương hưu đối với lao động nữ bắt đầu hưởng lương hưu từ ngày 01/01/2018
đến ngày 31/12/2021 bị tác động bất lợi hơn so với lao động nam do thay đổi
cách tính lương hưu.
Ngày 13/7/2018, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
có Công văn số 2830/LĐTBXH-BHXH gửi một số Bộ, ngành, cơ quan xin ý kiến về dự
thảo Nghị định về việc điều chỉnh lương hưu đối với số lao động nữ bắt đầu hưởng
lương hưu trong giai đoạn từ năm 2018 đến năm 2021. Hiện nay, Bộ LĐTBXH đang tổng
hợp ý kiến tham gia của các Bộ, ngành, cơ quan trước khi trình Chính phủ xem
xét, ban hành.
4. Về tỷ lệ giảm trừ cho mỗi
năm về hưu trước tuổi đối với ngành sử dụng nhiều lao động như thủy sản, dệt
may, điện tử ... từ 2% xuống 1%.
Để đảm bảo tốt hơn nguyên tắc đóng - hưởng, sự bền
vững lâu dài của quỹ hưu trí và tử tuất và sự công bằng trong tham gia và thụ
hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội, Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 đã sửa đổi, bổ
sung nhiều quy định trong cách tính đóng, hưởng của chế độ hưu trí, trong đó có
quy định tăng tỷ lệ giảm trừ tỷ lệ hưởng lương hưu do nghỉ hưu trước tuổi từ 1%
lên 2% cho mỗi năm nghỉ hưu trước tuổi so với Luật BHXH năm 2006.
Thực tế, theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã
hội trước Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 thì người lao động có từ đủ 20 năm đóng
BHXH trở lên và bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên thì được nghỉ việc
hưởng lương hưu sớm hơn tối đa 10 tuổi so với đối tượng khác và tỷ lệ giảm trừ
chỉ là 1% cho mỗi năm nghỉ hưu trước tuổi. Quy định này không đảm bảo nguyên tắc
đóng - hưởng, khi tính hưởng lương hưu thì mỗi năm đóng BHXH người lao động được
tính 3% đối với nữ và 2,5% đối với nam nhưng khi nghỉ hưu trước tuổi thì mỗi
năm nghỉ bị trừ 1% (Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) khuyến nghị và nhiều nước thực
hiện trừ 5-6% cho mỗi năm nghỉ hưu trước tuổi quy định), trong khi đó người lao
động nghỉ hưu trước tuổi thì sẽ hưởng lương hưu sớm hơn và dừng đóng vào quỹ sớm
hơn so với các đối tượng khác, Theo số liệu thống kê những năm qua cho thấy,
trong tổng số những người nghỉ việc hưởng lương hưu thì có khoảng 60% người nghỉ
hưu trước tuổi; tuy nhiên, nhiều; điều tra cho thấy nhiều người lao động sau
khi xin nghỉ hưu sớm do suy giảm khả năng lao động sau đó vẫn tiếp tục làm việc
(không phải đóng BHXH).
Chính vì vậy, việc Luật bảo hiểm xã hội năm 2014
quy định tăng tỷ lệ giảm trừ tỷ lệ hưởng lương hưu do nghỉ hưu trước tuổi từ 1%
lên 2% cho mỗi năm nghỉ hưu trước tuổi là phù hợp. Mặt khác, Luật bảo hiểm xã hội
cũng đã quy định đối với người lao động làm nghề hoặc công việc nặng nhọc, độc
hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm thì được nghỉ hưu sớm
hơn lao động làm việc trong điều kiện bình thường tối đa là 5 tuổi mà không phải
trừ tỷ lệ % hưởng lương hưu do nghỉ hưu trước tuổi quy định.
5. Về việc không nên khống chế
mức đóng BHXH tối đa
Bảo hiểm xã hội là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp
một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm
đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết
trên cơ sở đóng vào quỹ bảo hiểm xã hội. Mức hưởng bảo hiểm xã hội được tính
trên cơ sở mức đóng, thời gian đóng bảo hiểm xã hội và có chia sẻ giữa những
người tham gia bảo hiểm xã hội.
Bảo hiểm xã hội là chính sách của Nhà nước, quỹ bảo
hiểm xã hội được nhà nước bảo hộ. Nhà nước bảo hộ quỹ nhằm đảm bảo cho người
lao động được thụ hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội ở mức cơ bản. Ngoài ra, nếu
có điều kiện và nhu cầu thì người lao động, người sử dụng lao động có thể tham
gia các loại hình bảo hiểm khác để được mức thụ hưởng cao hơn. Chính vì vậy, Luật
bảo hiểm xã hội năm 2006 đã quy định mức trần tiền lương tháng đóng BHXH bắt buộc
cao nhất bằng 20 tháng lương tối thiểu chung (nay là mức lương cơ sở) và được kế
thừa tiếp tục quy định trong Luật bảo hiểm xã hội năm 2014.
Trên thực tế, thời kỳ trước Luật bảo hiểm xã hội
năm 2006 do không có quy định về trần đóng BHXH bắt buộc nên dẫn đến có sự
chênh lệch quá lớn về mức hưởng chế độ bảo hiểm xã hội giữa những người tham
gia, đặc biệt là chế độ hưu trí (cá biệt có người có lương hưu cao hơn 100 triệu
đồng/tháng, trong khi đó nhiều người chỉ hưởng lương hưu bằng mức lương cơ sở,
hiện nay là 1,39 triệu đồng/tháng).
Chính vì vậy, việc quy định trần đóng BHXH bắt buộc
như hiện nay là hợp lý, hoàn toàn phù hợp với quan điểm, định hướng tại Nghị
quyết số 28/NQ-TW ngày 23/5/2018 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về cải
cách chính sách bảo hiểm xã hội, đây cũng là quy định phù hợp với xu hướng
chung của các nước. Đối với những người sử dụng lao động, người lao động nếu có
nhu cầu, điều kiện thì ngoài việc tham gia BHXH bắt buộc theo quy định, có thể
tham gia đóng góp bảo hiểm hưu trí bổ sung để được hưởng mức lương hưu cao hơn.
6. Về chính sách an sinh xã hội
chưa công bằng giữa khu vực Nhà nước (bình quân một số năm cuối) và tư nhân
(bình quân toàn bộ quá trình)
Chính sách BHXH ở Việt Nam bắt đầu thực hiện từ năm
1962 theo Nghị định số 218/CP ngày 27 tháng 12 năm 1961 của Hội đồng Chính phủ
ban hành Điều lệ tạm thời về các chế độ BHXH đối với công nhân viên chức Nhà nước,
bao gồm chủ yếu các chính sách về hưu trí, tử tuất, ốm đau, thai sản và tai nạn
lao động, đối tượng chỉ bao gồm lao động khu vực nhà nước. Ngân sách nhà nước
chịu trách nhiệm chi trả các chế độ BHXH. Bước vào thời kỳ đổi mới và hội nhập
quốc tế, với sự phát triển của nền kinh tế nhiều thành phần, chính sách BHXH
cũng từng bước được sửa đổi, bổ sung, mở rộng ra các khu vực kinh tế khác.
Do nguyên nhân khách quan, chính sách BHXH phát triển
cùng vơi sự thay đổi nền kinh tế nước ta chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa tập
trung sang kinh tế thị trường, Nhà nước phải kế thừa trách nhiệm đối với lao động
đã làm việc cho khu vực nhà nước trước đây nay chuyển sang cơ chế đóng - hưởng.
Chính vì vậy, để đảm bảo nguyên tắc công bằng, bình đẳng trong tham gia và thụ
hưởng chính sách BHXH cần có lộ trình thực hiện, cụ thể:
- Trước ngày 01/01/2007, cách tính mức bình quân tiền
lương tháng đóng BHXH để tính lương hưu đối với người lao động thuộc khu vực
nhà nước tính bình quân 5 năm cuối, còn người lao động thuộc khu vực ngoài nhà
nước thì tính bình quân toàn bộ quá trình đóng. Điều này tạo ra sự không công bằng
trong tham gia và thụ hưởng BHXH giữa người lao động thuộc khu vực nhà nước và
khu vực ngoài nhà nước.
- Từ ngày 01/01/2007 trở đi, theo quy định của Luật
BHXH năm 2006, đối với người lao động thuộc khu vực nhà nước thì tính bình quân
5 năm, 6 năm, 8 năm hoặc 10 năm cuối cùng trước khi nghỉ hưu tùy thuộc vào thời
gian bắt đầu tham gia BHXH. Như vậy, Luật BHXH năm 2006 đã có một bước tiến
trong việc tạo nên sự bình đẳng hơn trong cách tính mức bình quân giữa khu vực
nhà nước và khu vực ngoài nhà nước.
- Luật bảo hiểm xã hội năm 2014 đã quy định bổ sung
thêm 2 lộ trình tính bình quân 15 năm, 20 năm cuối, sau đó thực hiện tính bình
quân toàn bộ quá trình đóng bảo hiểm xã hội đối với người lao động thuộc khu vực
nhà nước.
Như vậy, Luật BHXH năm 2014 tiếp nối quy định của
Luật bảo hiểm xã hội năm 2006, thực hiện lộ trình tiến tới đảm bảo bình đẳng
trong cách tính mức bình quân tiền lương tháng đóng BHXH để tính lương hưu giữa
người lao động khu vực nhà nước và ngoài nhà nước. Đối với người lao động thuộc
khu vực nhà nước bắt đầu tham gia BHXH từ năm 2025 trở đi thì khi nghỉ hưu sẽ
tính bình quân toàn bộ quá trình đóng như người lao động thuộc khu vực ngoài.
7. Về lãi phạt chậm đóng bảo hiểm
xã hội
Theo quy định được nộp chậm 30 ngày, nhưng nếu
qua ngày thứ 31 mới nộp (chậm 1 ngày) thì bị lãi phạt 1 tháng; kiến nghị được
tính lãi chậm đóng theo đúng số ngày chậm đóng
Luật bảo hiểm xã hội quy định trách nhiệm của người
sử dụng lao động hằng tháng đóng trên quỹ tiền lương đóng bảo hiểm xã hội của
người lao động và trích từ tiền lương của người lao động theo quy định để đóng
cùng một lúc vào quỹ bảo hiểm xã hội. Như vậy, theo quy định của luật thì hằng
tháng người sử dụng lao động phải có trách nhiệm đóng bảo hiểm xã hội đầy đủ, kịp
thời vào quỹ bảo hiểm xã hội để thực hiện các chế độ bảo hiểm xã hội cho người
lao động.
Kết thúc tháng mà người lao động chưa đóng BHXH của
tháng đó là vi phạm hành vi chậm đóng tiền bảo hiểm xã hội theo khoản
2 Điều 17 của Luật bảo hiểm xã hội về các hành vi bị nghiêm cấm. Tuy nhiên,
tại khoản 3 Điều 122 của Luật bảo hiểm xã hội quy định: “Người
sử dụng lao động có hành vi vi phạm quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều 17 của
Luật này từ 30 ngày trở lên thì ngoài việc phải đóng đủ số tiền
chưa đóng, chậm đóng và bị xử lý theo quy định của pháp luật, còn phải hộp số
tiền lãi bằng 02 lần mức lãi suất đầu tư quỹ bảo hiểm xã hội bình quân của năm
trước liền kề tính trên số tiền, thời gian chậm đóng;…”, quy định này cũng đã
nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người sử dụng lao động trong việc thực hiện
trách nhiệm đóng BHXH cho người lao động.
8. Về kiến nghị cho phép doanh
nghiệp không phải đóng BHXH khi người lao động không làm việc và không hưởng tiền
lương từ 11 ngày làm việc trở lên trong tháng
Theo quy định của Luật BHXH thì hiện nay việc tham
gia BHXH được thực hiện theo tháng, không quy định việc tham gia BHXH theo ngày
hoặc theo tuần. Chính vì vậy, tại khoản 3 Điều 85 và khoản 4 Điều
86 của Luật bảo hiểm xã hội quy định người lao động không làm việc và không
hưởng tiền lương từ 14 ngày làm việc trở lên trong tháng (trên ½ thời gian làm
việc tiêu chuẩn của tháng) thì người lao động và người sử dụng lao động không
đóng bảo hiểm xã hội tháng đó.
Quy định nêu trên đã được quy định từ năm 2007 (từ
Luật bảo hiểm xã hội năm 2006) và được kế thừa tiếp tục quy định tại Luật bảo
hiểm xã hội năm 2014. Trong quá trình tổ chức lấy ý kiến khi xây dựng Luật bảo
hiểm xã hội năm 2014, quy định này cơ bản nhận được sự thống nhất của các cơ
quan, tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp tham gia ý kiến.
9. Về trợ cấp thất nghiệp
Quy định về thời gian đóng, hưởng BHTN còn bất cập,
cụ thể: nếu NLĐ đóng đủ 12 đến 36 tháng thì được hưởng 03 tháng trợ cấp thất
nghiệp, sau đó cứ đóng thêm 12 tháng được hưởng thêm 01 tháng nhưng tối đa
không quá 12 tháng. Quy định này đã bị NLĐ đặc biệt là lao động trẻ lợi dụng nhảy
việc theo cách chỉ đi làm 12 tháng sau đó xin thôi việc để hưởng 03 tháng trợ cấp
thất nghiệp rồi tìm việc làm ở DN khác. Đây là vấn đề gây vỡ quỹ và tăng biến động
lao động, tăng chi phí tuyển dụng, đào tạo của doanh nghiệp.
Trong quá trình xây dựng chính sách bảo hiểm thất
nghiệp tại Luật Việc làm, Ban soạn thảo đã nghiên cứu kinh nghiệm của các quốc
gia thực hiện thành công chính sách bảo hiểm thất nghiệp/bảo hiểm việc làm
(Canada, Hàn Quốc, Nhật Bản, Thái Lan,...) và quy chuẩn quốc tế về bảo hiểm thất
nghiệp thì:
- Theo quy định tại Điều 15 Công ước
số 168 của Tổ chức Lao động Quốc tế về xúc tiến việc làm và bảo vệ chống thất
nghiệp thì mức trợ cấp thất nghiệp không ít hơn 45% của thu nhập trước đó
hoặc không ít hơn 45% của tiền lương tối thiểu theo quy định hoặc của tiền
lương của người lao động bình thường nhưng không ít hơn mức có thể đảm bảo mức
sống cơ bản tối thiểu; Điều 24 Công ước số 102 của Tổ chức Lao động
Quốc tế về quy phạm tối thiểu về an toàn xã hội thì thời gian hưởng trợ cấp
thất nghiệp tối thiểu là 12 tuần (3 tháng) trong thời kỳ 12 tháng.
- Tại Điều 48 Bộ luật Lao động
quy định trách nhiệm của người sử dụng lao động trong việc chi trả trợ cấp thôi
việc cho người lao động đã làm việc thường xuyên từ đủ 12 tháng trở lên khi chấm
dứt hợp đồng lao động thuộc một trong các trường hợp theo quy định, mỗi năm làm
việc được trợ cấp ½ tháng tiền lương (50% mức tiền lương); Tại Điều 49 Bộ luật Lao động quy định trách nhiệm của người sử dụng
lao động trong việc chi trả trợ cấp mất việc làm cho người lao động đã làm việc
thường xuyên cho mình từ 12 tháng trở lên mà bị mất việc làm trong các trường hợp
theo quy định, mỗi năm làm việc trả 01 tháng tiền lương (100% mức
tiền lương) nhưng ít nhất phải bằng 02 tháng tiền lương (tối thiểu 200%
mức tiền lương).
Như vậy, thời gian đóng bảo hiểm thất nghiệp tối
thiểu đủ 12 tháng để được hưởng trợ cấp thất nghiệp tối thiểu là 03 tháng với mức
hưởng là 60% mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp (180%)
là tương đối phù hợp với thông lệ quốc tế và các mức trợ cấp mà người
lao động được nhận khi mất việc làm theo quy định hiện hành, đồng thời, đảm bảo
quyền lợi của người lao động, giảm bớt khó khăn trong thời gian thất nghiệp và
hỗ trợ người thất nghiệp nhanh chóng tìm được việc làm thông qua các chế độ tư
vấn, giới thiệu việc làm và hỗ trợ học nghề.
Về kiến nghị của hiệp hội, Bộ Lao động - Thương
binh và Xã hội sẽ nghiên cứu, tiếp thu và báo cáo cấp có thẩm quyền khi sửa đổi,
bổ sung Luật Việc làm.
III. Về các kiến nghị về lao động
- tiền lương
1. Về thời hạn thanh toán khi chấm dứt hợp đồng
lao động
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 47 của
Bộ luật Lao động thì trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày chấm dứt hợp
đồng lao động, hai bên có trách nhiệm thanh toán đầy đủ các khoản có liên quan
đến quyền lợi của mỗi bên; trường hợp đặc biệt, có thể kéo dài nhưng không được
quá 30 ngày.
Căn cứ vào quy định nêu trên thì khi chấm dứt hợp đồng
lao động đối với người lao động, người sử dụng lao động phải thanh toán các khoản
như tiền lương, trợ cấp thôi việc hoặc trợ cấp mất việc làm và các khoản khác
có liên quan cho người lao động theo thời hạn quy định tại Khoản
2 Điều 47 của Bộ luật Lao động, về kiến nghị của Hiệp hội chế biến và Xuất
khẩu Thủy sản Việt Nam đề nghị kéo dài thời gian thanh toán các khoản có liên
quan đến quyền lợi của mỗi bên khi chấm dứt hợp đồng lao động, Bộ sẽ nghiên cứu,
xem xét trong quá trình xây dựng dự án Bộ luật Lao động (sửa đổi) dự kiến trình
Quốc hội cho ý kiến tại kỳ họp tháng 5 năm 2019.
2. Về quy định đối với lao động nữ: nghỉ 30 phút
trong thời gian hành kinh; giúp đỡ, hỗ trợ xây dựng nhà trẻ, lớp mẫu giáo
- Theo quy định tại Khoản 5 Điều
155 Bộ luật Lao động, Khoản 2 Điều 7 Nghị định số
85/2015/NĐ-CP thì lao động nữ trong thời gian hành kinh được nghỉ mỗi ngày
30 phút, tối thiểu là 03 ngày trên tháng; thời gian nghỉ cụ thể do người lao động
thỏa thuận với người sử dụng lao động phù hợp với điều kiện thực tế tại nơi làm
việc và nhu cầu của người lao động nữ.
- Theo quy định tại khoản 4 Điều
154 Bộ luật Lao động, Khoản 1 Điều 9 Nghị định số
85/2015/NĐ-CP thì căn cứ điều kiện cụ thể, người sử dụng lao động xây dựng
phương án, kế hoạch giúp đỡ, hỗ trợ, xây dựng nhà trẻ, lớp mẫu giáo hoặc hỗ trợ
một phần chi phí gửi trẻ, mẫu giáo đối với lao động nữ có con trong độ tuổi gửi
trẻ, mẫu giáo bằng tiền mặt hoặc hiện vật. Mức và thời gian hỗ trợ do người sử
dụng lao động thỏa thuận với đại diện lao động nữ. Ngoài ra tại Khoản 2 Điều
này còn quy định khuyến khích người sử dụng lao động tổ chức, xây dựng nhà trẻ,
lớp mẫu giáo.
Các quy định nêu trên đã thể hiện chính sách lao động
đặc thù với lao động nữ, nhằm bảo đảm quyền của lao động nữ, đồng thời tôn trọng
quyền tự do thỏa thuận của các bên trong quan hệ lao động. Tuy nhiên, một số
quy định còn chưa cụ thể, Bộ sẽ nghiên cứu, xem xét trong quá trình xây dựng dự
án Bộ luật Lao động (sửa đổi) dự kiến trình Quốc hội cho ý kiến tại kỳ họp
tháng 5 năm 2019.
3. Về quy định không được xử lý kỷ luật lao động
đối với người lao động là cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi đang nuôi con nhỏ dưới 12 tháng
tuổi
- Tại điểm d khoản 4 Điều 123 của Bộ
luật Lao động năm 2012 quy định không được xử lý kỷ luật lao động đối với
lao động nữ có thai, nghỉ thai sản; người lao động nuôi con nhỏ dưới 12 tháng
tuổi.
- Khoản 3 Điều 68 Luật Hôn nhân và
Gia đình năm 2014 quy định giữa con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi có các quyền
và nghĩa vụ của cha mẹ và con được quy định tại Luật này, Luật nuôi con nuôi Bộ
luật dân sự và các luật khác có liên quan.
- Căn cứ quy định nêu trên, tại Điểm
d Khoản 4 Điều 123 của Bộ luật Lao động, Điều 29 Nghị định
số 05/2015/NĐ-CP ngày 12/01/2015 của Chính phủ đã quy định người sử dụng
lao động không được xử lý kỷ luật lao động đối với người lao động là cha đẻ, mẹ
đẻ hoặc cha nuôi, mẹ nuôi hợp pháp đang nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi; khi hết
thời gian nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi, mà thời hiệu xử lý kỷ luật đã hết
thì được kéo dài thời hiệu xử lý kỷ luật lao động, nhưng tối đa không quá 60
ngày, kể từ ngày hết thời gian nuôi con nhỏ dưới 2 tháng tuổi.
Tuy nhiên, trên thực tế hiện nay, nhiều trường hợp
người lao động là cha đẻ, cha nuôi (không trực tiếp nuôi con nuôi) lợi dụng quy
định này để vi phạm nội quy lao động của doanh nghiệp mà không bị xử lý kỷ luật
lao động do đang trong thời gian nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi, vấn đề này được
quy định tại Bộ luật Lao động (Điểm d Khoản 4 Điều 123), vì
vậy, Bộ ghi nhận ý kiến góp ý của quý Hiệp hội để tổng hợp, nghiên cứu, xem xét
trong quá trình xây dựng dự án Bộ luật Lao động (sửa đổi), tránh trường hợp người
lao động lợi dụng quy định này để vi phạm pháp luật.
4. Về trợ cấp thôi việc cho người nước ngoài
- Theo Điều 2 Luật Bảo hiểm xã hội
năm 2006, Khoản 1 Điều 3, Điều 43 của Luật Việc làm thì
người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam không thuộc đối tượng tham gia
bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp.
- Theo quy định tại Khoản 2 Điều 2
và Khoản 1 Điều 124 của Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 thì kể từ ngày
01/01/2018 thì người lao động là công dân nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam
có giấy phép lao động hoặc chứng chỉ hành nghề hoặc giấy phép hành nghề do cơ
quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp được tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc theo
quy định của Chính phủ.
- Theo quy định tại Điều 48 của Bộ
luật Lao động và Điều 14 Nghị định số 05/2015/NĐ-CP
ngày 12/01/2015 của Chính phủ thì người sử dụng lao động có trách nhiệm chi trả
trợ cấp thôi việc theo quy định tại Điều 48 của Bộ luật Lao động
cho người lao động đã làm việc thường xuyên cho mình từ đủ 12 tháng trở lên khi
hợp đồng lao động chấm dứt theo quy định tại các Khoản 1, 2, 3,
5, 6, 7, 9 Điều 36 và người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng
lao động theo quy định tại Điều 38 của Bộ luật Lao động.
Hiện nay, pháp luật lao động quy định về trợ cấp
thôi việc không có sự phân biệt giữa người lao động nước ngoài làm việc tại Việt
Nam và người lao động Việt Nam. Vì vậy, khi người lao động nước ngoài làm việc
tại Việt Nam chấm dứt hợp đồng lao động đúng pháp luật thì người sử dụng lao động
có trách nhiệm chi trả trợ cấp thôi việc theo đúng quy định tại Điều
48 của Bộ luật Lao động nêu trên. Cách tính trợ cấp thôi việc được thực hiện
theo quy định tại Khoản 3 Điều 14 Nghị định số 05/2015/NĐ-CP
nêu trên.
Bộ ghi nhận ý kiến góp ý của quý Hiệp hội để tổng hợp,
nghiên cứu, xem xét trong quá trình sửa đổi pháp luật lao động và pháp luật về bảo
hiểm thất nghiệp.
5. Về việc tăng lương tối thiểu vùng
Theo quy định tại Điều 91 của Bộ luật
Lao động thì mức lương tối thiểu vùng được điều chỉnh căn cứ vào nhu cầu sống
tối thiểu của người lao động và gia đình họ; điều kiện kinh tế - xã hội và mức
tiền lương trên thị trường lao động. Căn cứ quy định trên, hàng năm Bộ Lao động
- Thương binh và Xã hội với vai trò là thành viên của Hội đồng tiền lương quốc
gia tham gia đã phân tích, đánh giá thực tế, thương lượng, thống nhất phương án
điều chỉnh mức lương tối thiểu vùng và khuyến nghị với Chính phủ công bố mức điều
chỉnh tiền lương tối thiểu. Đối với kiến nghị của quý Hiệp hội, Bộ Lao động -
Thương binh và Xã hội ghi nhận và sẽ phối hợp với các thành viên trong Hội đồng
tiền lương quốc gia để thảo luận, phân tích và đề xuất với Chính phủ xem xét,
quyết định cho phù hợp.
IV. Về kiến nghị về thời giờ làm
việc - Thời giờ nghỉ ngơi và An toàn lao động - Vệ sinh lao động
1. Về thời gian làm thêm giờ
- Đối với những công việc có tính chất thời vụ Bộ
Lao động Thương binh và Xã hội đã ban hành Thông tư số 54/2015/TT-BLĐTBXH ngày
16/12/2015 hướng dẫn thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi đối với người lao động
làm công việc sản xuất có tính chất thời vụ và công việc gia công hàng theo đơn
đặt hàng
- Về tăng giới hạn giờ làm thêm, Bộ Lao động -
Thương binh và Xã hội sẽ nghiên cứu tiếp thu và tích cực phối hợp với các cơ
quan liên quan lấy ý kiến doanh nghiệp, người lao động, nhân dân, cử tri trên cả
nước, lắng nghe ý kiến nhiều chiều, nghiên cứu, đánh giá về cơ sở khoa học, thực
tiễn liên quan đến tăng giới hạn số giờ làm thêm hợp lý, đảm bảo cân bằng công
việc và cuộc sống, sức khỏe người lao động, tỷ lệ thất nghiệp trong cuộc cách mạng
4.0 cũng như trao thêm quyền thỏa thuận với người lao động để trình Chính phủ,
trình Quốc hội nhằm đạt được sự đồng thuận cao của xã hội.
2. Về chăm sóc sức khỏe cho người lao động
Việc khám sức khỏe định kỳ nhằm tầm soát, phát hiện
và có giải pháp kịp thời đối với người làm việc trong điều kiện có nhiều nguy
cơ gây bệnh nghề nghiệp, tai nạn lao động. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
sẽ nghiên cứu tiếp thu kiến nghị trong quá trình sửa Bộ luật lao động, đồng thời
xin thêm ý kiến của Bộ Y tế, cơ quan giúp Chính phủ quản lý nhà nước về y tế.
3. Về đề nghị bỏ quy định tại Khoản
3 Điều 108 Bộ luật lao động 2012 “Ngoài thời gian nghỉ giữa giờ quy định tại
Khoản 1 và Khoản 2 Điều này, người sử dụng lao động quy định thời điểm các đợt
nghỉ ngắn và ghi vào nội quy lao động” do không nhất thiết phải quy định nghỉ
ngơi đồng loạt điều này
Khoản 3 Điều 108 Bộ luật lao động
nêu rõ người sử dụng lao động quy định thời điểm các đợt nghỉ ngắn và
ghi vào nội quy lao động; không quy định người lao động phải nghỉ đồng loạt,
Quy định này nhằm đảm bảo cho người lao động có quỹ thời gian nghỉ ngơi hợp lý
theo tính chất công việc để đảm bảo sức khỏe, tránh tai nạn, rủi ro cũng như
nghỉ cần thiết trong quá trình lao động đã được tính trong định mức lao động
cho nhu cầu sinh lý tự nhiên cửa con người và tránh lao động cưỡng bức tại nới
làm việc.
4. Về quy định nghề, công việc chế biến thủy sản
đông lạnh thuộc nhóm nghề nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm bị cấm sử dụng lao động
chưa thành niên
Ngày 29/12/2017, đơn vị của Bộ (Cục An toàn Lao động)
đã có Công văn số 498/ATLĐ-CSBHLĐ để trả lời cho công văn số 200/2017/CV-VASEP
ngày 25/12/2017 của quý Hiệp hội về việc tháo gỡ vướng mắc về công việc chế biến
thủy sản đông lạnh bị xếp vào nhóm nghề nặng nhọc, độc hại. Theo đó, căn cứ vào
các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành không quy định ngành chế biến thủy sản
là ngành nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm, chỉ quy định 38 chức danh nghề, công việc
trong ngành Thủy sản là nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm kèm theo
mô tả điều kiện lao động; Đối với những nghề, công việc có điều kiện lao động
được cải thiện, không còn yếu tố nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm thì Hiệp hội cần
có ý kiến về Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn để xem xét thống nhất trên
toàn ngành thủy sản đề nghị Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đưa ra khỏi
danh mục.
Về chức danh nghề số 38: “Chế biến chượp, mắm
tôm, nước mắm, thủy, hải sản khô”, danh mục các công việc và nơi làm việc cấm sử
dụng lao động là người chưa thành niên thuộc Thông tư số 10/2013/TT-BLĐTBXH
ngày 10/6/2013 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội:
Hiện nay, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đang
nghiên cứu, sửa đổi Thông tư 10/2013/TT-BLĐTBXH, dự kiến ban hành trong tháng
12/2018. Đề nghị, quý Hiệp hội phối hợp cùng Bộ Nông nghiệp và phát triển nông
thôn, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội trong quá trình, nghiên cứu, đánh giá
chức danh này. Trường hợp điều kiện lao động đối với lao động là người chưa
thành niên đã được cải thiện, Bộ sẽ cân nhắc điều chỉnh chức danh này trong
Thông tư cho phù hợp.
Trên đây là trả lời của Bộ Lao động - Thương binh
và Xã hội về các kiến nghị của quý Hiệp hội./.
Nơi nhận:
- Như trên;
- Bộ trưởng (để báo cáo);
- Vụ BHXH, Cục ATLĐ;
- Cục QHLĐTL, Cục Việc làm;
- Lưu: VT, PC.
|
KT. BỘ TRƯỞNG
THỨ TRƯỞNG
Doãn Mậu Diệp
|