UỶ BAN
THƯỜNG VỤ
QUỐC HỘI
--------
|
CỘNG HÒA
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số:
34/BC-UBTVQH14
|
Hà Nội,
ngày 19 tháng 10 năm 2016
|
BÁO
CÁO
KẾT
QUẢ TIẾP CÔNG DÂN, XỬ LÝ ĐƠN, THƯ VÀ GIÁM SÁT VIỆC GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO
CỦA CÔNG DÂN GỬI ĐẾN QUỐC HỘI
(Từ
16/8/2015 đến 15/8/2016)
Căn cứ Nghị quyết số
994/NQ-UBTVQH13, ngày 10/8/2015 của Ủy ban thường vụ Quốc hội (UBTVQH) về chương
trình hoạt động giám sát của UBTVQH năm 2016 và Kế hoạch số 949/KH-UBTVQH13
ngày 28/9/2015 của UBTVQH về triển khai thực hiện chương trình hoạt động giám
sát của Quốc hội và UBTVQH năm 2016, UBTVQH xin báo cáo các vị Đại biểu Quốc
hội (ĐBQH) về kết quả thực hiện công tác tiếp công dân, xử lý đơn thư và giám
sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo gửi đến Quốc hội trong kỳ báo cáo như
sau:
I. KẾT QUẢ
TIẾP CÔNG DÂN, XỬ LÝ ĐƠN THƯ VÀ GIÁM SÁT VIỆC GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO CỦA HỘI
ĐỒNG DÂN TỘC, CÁC ỦY BAN CỦA QUỐC HỘI, ĐOÀN ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI VÀ ĐẠI BIỂU QUỐC
HỘI
Trong kỳ báo cáo,
tình hình khiếu nại, tố cáo vẫn còn diễn biến khá phức tạp. Số công dân đến địa
điểm tiếp công dân của các cơ quan của Quốc hội, Đoàn ĐBQH tuy có giảm về số
lượt người nhưng số lượng đơn thư khiếu nại, tố cáo gửi đến Lãnh đạo Quốc hội, các
cơ quan của Quốc hội có chiều hướng gia tăng, nhất là những vụ việc khiếu nại,
tố cáo đông người; vụ việc đã được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét,
giải quyết lần 2 nhưng công dân không khởi kiện ra Tòa; những vụ việc người
khiếu nại không đồng ý với việc chấm dứt giải quyết của Ủy ban nhân dân (UBND)
cấp tỉnh theo hướng dẫn của Thanh tra Chính phủ mà tiếp tục khiếu nại hoặc tố
cáo… Trên cơ sở báo cáo kết quả công tác tiếp công dân, xử lý đơn thư và giám
sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan của Quốc hội, Đoàn ĐBQH, tổng
hợp kết quả như sau:
1. Kết quả
tiếp công dân
Theo báo cáo của
Thường trực Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội[1], việc tiếp công dân của các
cơ quan chủ yếu thông qua hoạt động tiếp xúc cử tri, các buổi tiếp công dân
theo phân công của Đoàn ĐBQH tại nơi
ứng cử hoặc gắn với các đợt giám sát, khảo sát tại các địa phương[2].
Tại địa điểm tiếp
công dân của Quốc hội đã tiếp 10.132 lượt người đến khiếu nại, tố cáo, kiến
nghị với Quốc hội về 3.296 vụ việc. Trong đó, đã trực tiếp tiếp 1.875 lượt
người về 1.539 vụ việc[3];
phối hợp với các cơ quan tiếp công dân Trung ương tiếp 8.257 lượt người
về 1.757 vụ việc[4].
Qua tiếp công dân, Thường trực tiếp công dân đã có văn bản chuyển, hướng dẫn
công dân đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết đối với 463 vụ việc (tăng 14,47%);
hướng dẫn công dân thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo hoặc chờ cấp có thẩm quyền
giải quyết trả lời những vụ việc đang trong thời hạn giải quyết và giải thích,
vận động công dân chấp hành kết quả giải quyết đúng pháp luật của cơ quan có
thẩm quyền đối với 1.019 vụ việc. Đến nay, qua theo dõi, UBTVQH đã nhận được 99
văn bản thông báo trả lời và 43 văn bản thông báo chấm dứt thụ lý giải quyết vụ
việc.
Trong kỳ báo cáo, các
Đoàn
ĐBQH,
ĐBQH
đã
tiếp 7.247 lượt người
đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị về 5.349 vụ việc,
trong đó có 136 đoàn đông
người.
So với kỳ trước, số lượt người tuy có giảm 23,3% và đoàn đông người giảm 21,8%,
nhưng số vụ việc tăng 29,2%. Các địa phương có nhiều người đến khiếu nại,
tố cáo, kiến nghị với Đoàn ĐBQH là: Quảng Ninh (985 lượt), Hà Nội (489
lượt), Vĩnh Phúc (425 lượt), Thanh Hóa (415 lượt), Quảng Bình (380
lượt), Bắc
Ninh (311 lượt), Thành phố Hồ Chí Minh (256 lượt),…
Về cơ bản, công tác
tiếp công dân của các cơ quan của Quốc hội, của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Đoàn ĐBQH và ĐBQH được tổ
chức, thực hiện từng bước có hiệu quả. Thông qua hoạt động tiếp công dân,
các cơ quan của Quốc hội , Đoàn ĐBQH đã hướng dẫn công dân gửi đơn đến đúng cơ
quan có thẩm quyền giải quyết, giải thích, vận động công dân chấp hành việc
giải quyết đã đúng quy định của pháp luật; nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của
người dân để tham gia xây dựng pháp luật hoặc nhận đơn, nghiên cứu, xử lý và
giám sát cơ quan, người có thẩm quyền trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo
theo quy định của pháp luật.
2.
Kết quả tiếp nhận, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo
2.1. Các cơ quan của
Quốc hội, của Ủy ban Thường vụ Quốc hội
Trong kỳ báo cáo, các
cơ quan của Quốc hội, các Ban của UBTVQH đã tiếp nhận 30.322 đơn, thư, khiếu
nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của công dân tăng 14% so với cùng kỳ. Nội dung
khiếu nại về
hành chính chủ yếu vẫn tập trung vào lĩnh vực đất đai như thu hồi đất,
việc áp giá bồi thường, tái định
cư
và hỗ trợ khi giải phóng mặt bằng, việc giải quyết tranh chấp nhà đất; về chính sách
ưu đãi người có công; về việc thực hiện chính sách nhà, đất
trước ngày 01/7/1991; tố cáo cán bộ lợi dụng chức vụ, quyền
hạn để vụ lợi, vi phạm pháp
luật trong quản lý đất đai, thu chi tài chính, đầu tư xây dựng cơ
bản...; khiếu nại
về tư pháp chủ yếu là đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đối
với các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Trong kỳ báo
cáo cũng có một số nội dung khiếu nại, tố cáo liên quan đến công tác nhân sự
tại Đại hội Đảng các cấp và Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII, liên quan đến
bầu cử ĐBQH khóa XIV và
đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016- 2021.
Theo báo cáo của các
cơ quan, sau khi nghiên cứu đơn được gửi đến qua đường bưu điện, qua hoạt động
tiếp công dân, các cơ quan của Quốc hội đã chuyển 903 đơn đến cơ quan có thẩm quyền
giải quyết và nhận được 729 văn bản trả lời (đạt tỷ lệ 80,73%)[5]; hướng dẫn, thông
báo trả lời công dân đối với 18 trường hợp; đang nghiên cứu, xử lý đối với
7.377 đơn, thư[6]; một số
cơ quan của Quốc hội, của Ủy ban thường vụ Quốc hội trong quá trình theo dõi
việc giải quyết đã ban hành công văn đôn đốc việc giải quyết của cơ quan có
thẩm quyền. Qua tổng hợp số liệu của các cơ quan của Quốc hội cho thấy, số
lượng đơn, thư xếp lưu, theo dõi do có nội dung trùng lặp và không đủ điều kiện
xử lý vẫn chiếm tỷ lệ lớn với 59,3% (17.981/30.322 đơn tiếp nhận)[7]. Số lượng
đơn, thư của công dân được chuyển đến các cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải
quyết tuy giảm 48,4% so với kỳ báo cáo trước, nhưng một số cơ quan của Quốc
hội, của UBTVQH đã dành được nhiều thời gian trong công tác nghiên cứu, xử lý
và chuyển đơn thư thuộc lĩnh vực phụ trách, như: Ủy ban tư pháp, Ủy ban về các
vấn đề xã hội, Ban Dân nguyện,..
Nhìn chung, công tác
tiếp nhận, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo của các cơ quan của Quốc hội đã có
những chuyển biến tích cực, từ việc tiếp nhận, hướng dẫn, trả lời công dân, tổ
chức nghiên cứu, xử lý, chuyển đơn, đến theo dõi, đôn đốc các cơ quan có thẩm
quyền yêu cầu giải quyết, góp phần bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân, ổn định trật tự xã hội.
2.2. Các Đoàn đại
biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội
Trong kỳ báo cáo, các
Đoàn ĐBQH đã tiếp nhận được 12.366 đơn, thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản
ánh (trong đó có 6.800 khiếu nại, 1.791 tố cáo và 3.775 kiến nghị, phản ánh)
giảm 17,7% so với cùng kỳ; số lượng đơn, thư trùng và không đủ điều kiện xử lý
chiếm tỷ lệ 50%. Các Đoàn ĐBQH đã chuyển 4.557 đơn đến cơ quan có thẩm quyền
giải quyết và nhận được 2.762 văn bản trả lời (giảm 9,4% số đơn chuyển và 1,6% số
văn bản trả lời so với cùng kỳ). Cùng với việc chuyển đơn đến cơ quan có thẩm
quyền giải quyết, các Đoàn ĐBQH, ĐBQH đã quan tâm hướng dẫn, giải thích và trả
lời cho công dân 1.445 đơn, thư (giảm 26,87% so với cùng kỳ).
Nhìn chung, công tác
tiếp nhận, xử lý đơn khiếu nại, tố cáo đã được nhiều Đoàn ĐBQH quan tâm, chủ
động nghiên cứu; tỷ lệ đơn của công dân được xem xét, xử lý đạt 98% số đơn nhận
được; nhiều Đoàn có tỷ lệ xử lý đơn cao tuy nhận được số lượng đơn thư rất lớn[8], như: Hà Nội, thành
phố Hồ Chí Minh, Thanh Hóa, Đồng Nai, Đăk Lăk, Quảng Ngãi, Đà Nẵng, Bình Dương,
Đăk Nông...; một số Đoàn và ĐBQH đã quan tâm hơn công tác theo dõi, đôn đốc cơ
quan có thẩm quyền trong việc giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo[9].
3. Kết quả
giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của Hội đồng dân tộc, Ủy ban của
Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội
3.1. Kết quả giám sát
của Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội
Qua tổng hợp báo cáo
của các cơ quan của Quốc hội cho thấy:
- Hội đồng Dân tộc: thông qua
các chương trình hoạt động giám sát, khảo sát thuộc lĩnh vực phụ trách, đã kết
hợp nắm tình hình, đôn đốc các ngành, các địa phương phối hợp với các cơ quan
chức năng ở trung ương có trách nhiệm xem xét giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến
nghị, phản ánh của công dân liên quan đến chính sách đối với đồng bào dân tộc,
đến lĩnh vực Hội đồng dân tộc phụ trách.
- Ủy ban Pháp luật: thông qua
việc thẩm tra Báo cáo công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo 2015, 2016 của
Chính phủ; thẩm tra các báo cáo của Chính phủ về việc thực hiện Nghị quyết của
Quốc hội, kết luận của UBTVQH về hoạt động giám sát chuyên đề và hoạt động chất
vấn từ đầu nhiệm kỳ khóa XIII đến 2015 thuộc các lĩnh vực tư pháp, nội vụ và
thanh tra, đã có đánh giá rõ hơn thực trạng tình hình khiếu nại, tố cáo, nêu
được những bất cập, hạn chế trong các quy định của pháp luật và những thuận
lợi, khó khăn, vướng mắc trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của các ngành,
các cấp. Bước đầu đã đưa ra một số kiến nghị giải pháp để nâng cao chất lượng
hiệu quả công tác này, trong đó có kiến nghị sửa đổi, bổ sung Luật Tố cáo đã
được đưa vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2017.
- Ủy ban Tư pháp:
thông qua việc thẩm tra các báo cáo công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của
ngành Tòa án nhân dân và ngành Kiểm sát nhân dân và hoạt động nghiên cứu, xử lý
đơn khiếu nại, tố cáo đã chỉ ra nhiều tồn tại, hạn chế trong công tác giải
quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan có thẩm quyền, nguyên nhân và kiến nghị
một số giải pháp cụ thể để khắc phục. Ủy ban còn chủ động theo dõi và có nhiều
văn bản đôn đốc, gửi chất vấn yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền giải quyết đối
với những vụ việc bức xúc, kéo dài. Kết quả, có 31 vụ việc đã được các cơ quan
có thẩm quyền trả lời về việc khiếu nại, tố cáo là có cơ sở và đã quyết định
xem xét, giải quyết lại vụ việc.
- Ủy ban về Các
vấn đề xã hội: qua nghiên cứu đơn thư, Ủy ban có văn bản kiến nghị và đôn
đốc, giám sát để cơ quan chức năng giải quyết. Trước mỗi kỳ họp Quốc hội, Ủy
ban thường tổ chức làm việc với các bộ, ngành liên quan để giám sát việc giải
quyết đơn đã được Ủy ban chuyển, đôn đốc nhưng chưa trả lời. Kết quả, Ủy ban đã
kiến nghị giải quyết được một số vụ việc phức tạp, chấm dứt được khiếu nại,
điển hình như trường hợp khiếu nại về oan sai của ông Lê Tiến Dũng[10] và việc công nhận
liệt sỹ đối với ông Vũ Xuân Hải ở tỉnh Lâm Đồng[11].
- Ủy ban Khoa học,
Công nghệ và Môi trường: Ủy ban đã kết hợp việc giám sát, khảo sát, đôn đốc
các bộ, ngành, địa phương giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo liên quan đến lĩnh
vực khoa học, công nghệ, ô nhiễm môi trường. Nhiều nội dung đơn kiến nghị, phản
ánh của công dân cũng đã được Ủy ban tiếp thu và đưa vào trong công tác xây
dựng pháp luật và các công tác khác của Ủy ban.
- Ủy ban Đối ngoại: thông qua
hoạt động của mình, nhất là qua thực hiện chuyên đề giám sát việc thực hiện
Luật cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài, Ủy ban đã nắm bắt tâm tư, nguyện
vọng, các kiến nghị, phản ánh của bà con kiều bào về các chính sách, pháp luật
của Nhà nước; kịp thời có ý kiến tham gia xây dựng các đạo luật về xuất nhập
cảnh, quốc tịch, tương trợ tư pháp, lý lịch tư pháp,..
- Ủy ban Quốc
phòng và An ninh, Ủy ban Kinh tế, Uỷ ban Tài chính - Ngân sách, Ủy ban Văn hóa,
Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng đã tiến hành các
hoạt động giám sát qua nghiên cứu, xử lý đơn, thư; lồng ghép với hoạt động giám
sát, khảo sát thuộc lĩnh vực phụ trách để xem xét, đôn đốc các bộ, ngành, địa
phương quan tâm giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo.
Về cơ bản, hoạt động
giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo đã được các cơ quan của Quốc hội quan
tâm tổ chức thực hiện; một số Ủy ban của Quốc hội có chương trình, kế hoạch
giám sát, tiến hành giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc lĩnh vực
phụ trách[12].
Qua hoạt động giám sát, các cơ quan của Quốc hội đã có những kiến nghị cụ thể
nhằm khắc phục những tồn tại, hạn chế, góp phần nâng cao hiệu quả công tác giải
quyết khiếu nại, tố cáo, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân.
3.2. Kết quả giám sát
của các Đoàn đại biểu Quốc hội
Nhiều Đoàn ĐBQH đã xây dựng chương
trình, kế hoạch giám sát; tổ chức giám sát chuyên đề về việc giải quyết khiếu
nại, tố cáo và việc giải quyết các vụ việc cụ thể; thực hiện giám sát thông qua
nghe báo cáo về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của địa phương; lồng ghép
nội dung giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong triển khai giám sát các
chuyên đề về kinh tế- xã hội. Theo báo cáo, có 10 Đoàn tổ chức được 12 cuộc
giám sát chuyên đề về việc giải quyết khiếu nại, tố cáo; 32 Đoàn báo cáo tiến
hành giám sát lồng ghép với các chuyên đề thuộc lĩnh vực khác; 14 Đoàn có văn
bản đôn đốc đối với 274 vụ việc; có 23 Đoàn ĐBQH tổ chức giám sát được 79 vụ
việc khiếu nại, tố cáo cụ thể[13], giảm 9 vụ
việc so với cùng kỳ. Công tác nghiên cứu, đánh giá văn bản trả lời việc giải
quyết của cơ quan có thẩm quyền đã được các Đoàn ĐBQH chú trọng hơn, bước đầu
đã phát huy hiệu quả hoạt động giám sát. Theo báo cáo của 20 Đoàn[14], trong số 1.529 văn
bản trả lời, có 349 vụ việc đang được giải quyết (chiếm 23%), 400 vụ việc không
có cơ sở giải quyết (chiếm 26%), 773 vụ việc đã tiến hành giải quyết xong
(chiếm 51%), đang xem xét lại 7 vụ việc[15] (chiếm
0,5%). Trong số 773 vụ việc được trả lời giải quyết xong ở trên, có 15 vụ việc
(chiếm 2% số vụ việc) được các Đoàn kiến nghị xem xét, giải quyết lại[16].
Từ kết quả giám sát việc thi hành pháp
luật về khiếu nại, tố cáo, giám sát việc giải quyết khiếu nại tố cáo, các Đoàn ĐBQH
và ĐBQH đã phát hiện nhiều tồn tại, hạn chế trong việc giải quyết khiếu nại, tố
cáo của cơ quan có thẩm quyền ở địa phương như: chưa đảm bảo đúng trình tự, thủ
tục thụ lý, thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo; tình trạng chậm giải
quyết, ban hành công văn, thông báo thay thế cho quyết định giải quyết khiếu
nại còn xảy ra ở nhiều nơi; việc áp dụng pháp luật, thời điểm áp dụng chưa
đúng... Qua đó, đã có nhiều kiến nghị với các cơ quan có thẩm quyền ở địa
phương, chấn chỉnh, khắc phục sai phạm, nâng cao trách nhiệm của cơ quan, người
có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng
của công dân, góp phần ổn định tình hình chính trị, xã hội tại địa phương.
4. Tồn tại,
hạn chế và nguyên nhân
4.1. Tồn tại, hạn chế
Bên cạnh những kết quả đạt được, công
tác tiếp công dân, xử lý đơn, thư và giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo
của các cơ quan của Quốc hội, Đoàn ĐBQH, ĐBQH còn có một số tồn tại, hạn chế
sau:
- Nhiều đại biểu Quốc hội kiêm
nhiệm ở địa phương, đại biểu Quốc hội ở Trung ương chưa dành được nhiều thời
gian cho công tác tiếp công dân theo phân công của Đoàn ĐBQH; cán bộ tham mưu, giúp
việc cho Đoàn
ĐBQH
về
lĩnh vực này còn thiếu, hạn chế về chuyên môn, nghiệp vụ nên chất lượng, hiệu
quả công tác tiếp công dân chưa cao.
- Thường trực Hội đồng Dân tộc, các Ủy
ban của Quốc hội chủ yếu tiếp công dân thông qua các đợt khảo sát, giám sát tại
địa phương theo chuyên đề khác thuộc lĩnh vực phụ trách hoặc qua các buổi tiếp
xúc cử tri của ĐBQH là thành viên Thường trực Hội đồng, Ủy ban, do đó chưa gắn
tiếp công dân với việc giám sát việc giải quyết những vụ việc khiếu nại, tố cáo
cụ thể. Theo quy định của pháp luật, công tác tiếp công dân của các cơ quan
của Quốc hội do Ban Dân nguyện giúp UBTVQH tổ chức và đại diện các cơ quan của
Quốc hội thường trực tiếp công dân tại địa điểm tiếp công dân của Quốc hội[17] và Trụ sở
tiếp công dân Trung ương, tuy nhiên văn bản hướng dẫn quy định về mối quan hệ
phối hợp giữa Ban Dân nguyện với Thường trực Hội đồng dân tộc và Thường trực Ủy
ban chưa cụ thể nên thực tế triển khai chưa phát huy hết trách nhiệm tiếp công
dân của các cơ quan của Quốc hội. Mặt khác, bộ phận Thường trực tiếp công dân do
Ban Dân nguyện tổ chức còn thiếu về cán bộ, tính pháp lý của địa điểm tiếp công
dân của Quốc hội chưa rõ ràng, cơ sở vật chất và các điều kiện đảm bảo khác phụ
thuộc vào cơ quan Thanh tra Chính phủ, do đó việc tiếp công dân chưa thực sự tương
xứng với vai trò của Quốc hội.
- Nhiều cơ quan của
Quốc hội, Đoàn
ĐBQH,
ĐBQH chưa gắn
việc tiếp công dân với tổ chức các hoạt động giám sát giải quyết khiếu nại, tố
cáo; việc xử lý đơn, thư chủ yếu vẫn là xem xét, chuyển đơn đến cơ quan có thẩm
quyền giải quyết; công tác theo dõi, đôn đốc, giám sát việc giải quyết chưa
thực hiện được nhiều và chưa có điều kiện tìm hiểu, nghiên cứu sâu nội dung vụ
việc, số vụ việc khiếu nại, tố cáo cụ thể được tiến hành giám sát có tỷ lệ thấp
(chiếm 1,7% số vụ việc đã chuyển); chưa chú trọng nhiều đến việc đánh giá kết
quả giải quyết, trả lời để yêu cầu giải quyết lại hoặc tiến hành giám sát theo
quy định của pháp luật; vẫn còn những trường hợp chuyển đơn không đúng cơ quan
có thẩm quyền giải quyết hoặc vụ việc đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền
giải quyết có căn cứ và đúng pháp luật nhưng vẫn chuyển đơn đề nghị xem xét,
giải quyết lại vụ việc.
- Công tác
phối hợp giữa Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, Đoàn ĐBQH và Ban Dân
nguyện trong công tác tiếp công dân chưa chặt chẽ, chưa phát huy hết vai
trò trách nhiệm của cơ quan dân cử, đại biểu dân cử trong việc bảo vệ quyền và
lợi ích chính đáng của công dân.
4.2. Nguyên nhân
4.2.1. Về nguyên nhân
khách quan:
Một số quy định hướng dẫn về công tác
tiếp công dân của các cơ quan của Quốc hội, Đoàn ĐBQH, ĐBQH chưa rõ về trách
nhiệm và sự phối hợp[18]; quy định về
phân loại, xử lý đơn thư của các cơ quan của Quốc hội[19] và của ĐBQH[20] ban hành từ
lâu, nay đã bất cập, chậm được sửa đổi, bổ sung nên thiếu tính khả thi, chưa cụ
thể về thẩm quyền, về cơ chế phối hợp xử lý đơn, thư và giám sát việc giải
quyết của các cơ quan có thẩm quyền đối với khiếu nại, tố cáo gửi đến Quốc hội,
các cơ quan của Quốc hội, các ban thuộc UBTVQH.
4.2.2. Về nguyên nhân
chủ quan:
- Một số Ủy ban của Quốc hội chưa dành
nhiều thời gian cho công tác nghiên cứu, xử lý đơn, thư và giám sát việc giải
quyết khiếu nại, tố cáo; đối với Đoàn ĐBQH thì chủ yếu do Đại biểu Quốc hội
chuyên trách tại địa phương đảm nhiệm nên ít có điều kiện đi sâu nghiên cứu,
giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo.
- Việc xây dựng hệ thống phần mềm cơ
sở dữ liệu về việc tiếp công dân, cập nhật nội dung, kết quả xử lý đơn thư
khiếu nại, tố cáo để dùng chung cho các cơ quan của Quốc hội, Đoàn ĐBQH chậm
được triển khai, hiện nay chủ yếu được thực hiện thủ công dẫn đến việc xử lý
chưa kịp thời, còn chồng chéo, việc trao đổi và tra cứu thông tin liên quan bị
hạn chế.
- Tổ chức bộ máy của cơ quan phục vụ, năng
lực, trình độ cán bộ giúp việc tại các cơ quan của Quốc hội, Văn phòng Đoàn ĐBQH
chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn của công tác tiếp công dân và việc nghiên cứu,
tham mưu xử lý đơn khiếu nại, tố cáo của công dân.
II.
KẾT QUẢ GIÁM SÁT 06 BỘ, NGÀNH VÀ 06 ĐỊA PHƯƠNG VỀ VIỆC GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ
CÁO
Thực hiện Chương
trình giám sát năm 2016, ngày 22/8/2016, UBTVQH đã ban hành Nghị quyết
số
231/NQ-UBTVQH14 và tổ chức Đoàn giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của
công dân
tại 06 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương[21] và làm việc với 04
cơ quan của Chính phủ[22], Tòa án
nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao; tổ chức giám sát việc
giải quyết 58 vụ việc khiếu nại, tố cáo cụ thể; đồng thời giám sát kết quả thực
hiện kiến nghị giám sát từ kỳ trước của UBTVQH. Kết quả giám sát cụ
thể như sau:
1. Kết quả
giám sát đối với 04 cơ quan của Chính phủ
- Văn phòng
Chính phủ:
với chức năng tham mưu tổng hợp cho Thủ tướng Chính phủ triển khai thực hiện
việc tổng kết việc thi hành Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo, Luật Tiếp công dân và
các văn bản hướng dẫn thi hành; tham mưu cho Thủ tướng Chính phủ ban hành các
chỉ thị, văn bản chỉ đạo các Bộ, ngành, địa phương nhằm nâng hiệu quả công tác
tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo; tiếp nhận, xử lý đơn khiếu nại, tố
cáo gửi đến Thủ tướng Chính phủ, Phó Thủ tướng Chính phủ và trực tiếp tham mưu
cho Thủ tướng Chính phủ, Phó Thủ tướng Chính phủ về việc giải quyết một số vụ
việc khiếu nại, tố cáo đông người, phức tạp, kéo dài xảy ra ở một số địa bàn
trọng điểm trong thời gian qua, như: Hà Nội, An Giang, Kiên Giang, Tiền Giang,
Bình Dương, Bình Phước… Trong số các vụ việc do các cơ quan chuyển đến Thủ
tướng Chính phủ để chỉ đạo giải quyết, có 03 vụ việc do cơ quan của Quốc hội
chuyển đến; đến nay, có 02 vụ việc đã được Thủ tướng giao cho các cơ quan hữu
quan xem xét, đề xuất biện pháp giải quyết[23];
01 vụ việc đã giao cho Bộ Tài nguyên và Môi trường rà soát và đã có báo cáo xin
ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ[24].
- Bộ Tài nguyên và
Môi trường:
trong kỳ báo cáo, Bộ đã tiếp nhận 4.137 đơn, tương ứng với 2.122 vụ việc do
công dân, các cơ quan chuyển đến. Trong đó có 18 vụ việc do Thủ tướng Chính phủ
giao, Bộ đã cử Đoàn công tác thẩm tra, xác minh 17 vụ việc, đã báo cáo Thủ
tướng Chính phủ 09 vụ. Kết quả, có 02 vụ khiếu nại đúng, 01 vụ khiếu nại có
đúng, có sai, 06 vụ khiếu nại sai. Đối với vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết,
Bộ đã thẩm tra, xác minh 25/29 vụ, đã có văn bản giải quyết 12 vụ, kết quả giải
quyết có 10 vụ khiếu nại sai, 02 vụ khiếu nại đúng; Trong số các vụ việc trên, có
07 vụ do các cơ quan của Quốc hội chuyển đến và đến nay 07 vụ[25] đã được giải quyết xong,
báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, cho ý kiến chỉ đạo.
- Thanh tra Chính
phủ:
với chức năng là cơ quan quản lý nhà nước về công tác giải quyết khiếu nại, tố
cáo, theo báo cáo trong năm 2016, Thanh tra Chính phủ đã tiếp nhận được 15.135
đơn, thư, trong đó 4.112 đơn đủ điều kiện xử lý (chiếm 28,6%), Thanh tra Chính
phủ đã chuyển, hướng dẫn công dân gửi đơn đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết.
Trong kỳ báo cáo, Thanh tra Chính phủ được Thủ tướng Chính phủ giao 39 vụ việc,
Ban Dân nguyện chuyển đến 05 vụ việc; trong đó, đã hoàn thành 16 vụ và trình
Thủ tướng xem xét, chỉ đạo; 28 vụ việc đang phối hợp với các bộ, ngành hữu quan
xem xét. Trong số 05 vụ việc do Ban Dân nguyện chuyển đến, có 01 vụ việc đã
giải quyết xong, 04 vụ việc đang được xem xét, giải quyết theo quy định.
- Bộ Xây dựng: theo Báo cáo
của Bộ Xây dựng[26],
cùng với các nội dung khiếu nại, tố cáo khác thuộc thẩm quyền giải quyết của Bộ,
có nhiều khiếu nại liên quan đến việc thực hiện chính sách quản lý nhà đất của
Nhà nước trước ngày 01/7/1991 theo Nghị quyết số 23/2003/QH11 ngày 26/11/2003
của Quốc hội (Nghị quyết 23) quy định về nhà đất do nhà nước quản lý, bố trí sử
dụng trong quá trình thực hiện các chính sách quản lý nhà đất và chính sách cải
tạo XHCN trước ngày 01/7/1991 và Nghị quyết số 755/2005/NQ-UBTVQH11 ngày
02/4/2005 của UBTVQH (Nghị quyết 755) quy định giải quyết đối với một số trường
hợp cụ thể về nhà, đất trong quá trình thực hiện các chính sách cải tạo XHCN
trước ngày 01/7/1991. Năm 2010, Chính phủ đã có Báo cáo tổng kết đánh giá về
một số tồn tại, vướng mắc trong việc thực hiện Nghị quyết 23 và Nghị quyết 755[27]. Từ năm 2010 đến nay, Bộ
Xây dựng đã ban hành quyết định giải quyết đối với 266 trường hợp; trong đó có
253 trường hợp bác đơn theo Nghị quyết 23 (chiếm 95%), giải quyết 13 trường hợp
theo Nghị quyết 755 (chiếm 5%). Trong số 253 trường hợp bác đơn, Bộ Xây dựng đã
đề nghị địa phương xem xét, hỗ trợ về nhà ở đối với 33 trường hợp (chiếm 13%)
có khó khăn về nhà ở.
Qua làm việc với Bộ Xây dựng, Viện
kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, một số địa phương, đồng
thời qua việc nghiên cứu, xử lý đơn, thư của công dân cho thấy, tình hình khiếu
nại liên quan đến việc thực hiện chính sách nhà đất do nhà nước quản lý, bố trí
sử dụng trong quá trình thực hiện các chính sách quản lý nhà đất và chính sách
cải tạo XHCN trước ngày 01/7/1991 vẫn còn diễn biến phức tạp, nhất là tại các
thành phố lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh. Việc thực hiện chính sách này
ở một số địa phương có trường hợp trả lại nhà, có trường hợp không trả lại hoặc
vận dụng chưa đúng Nghị quyết 755[28]; một số
vướng mắc chưa được Nghị quyết 755 đề cập đến như: Nhà nước đã mua lại hoặc
thanh lý nhưng chưa thanh toán tiền hoặc thanh toán một phần; người xuất cảnh
giao nhà cho Nhà nước quản lý nhưng không xuất cảnh được; người thuê, mượn,
được ủy quyền quản lý nhà giao nhà cho nhà nước; đã có quyết định trả nhà nhưng
quyết định chưa được thực hiện; điều kiện để được hỗ trợ cải thiện nhà ở (đối
với các đồng thừa kế, sinh sống ở địa phương khác...); nhà nước quản lý nhà
vắng chủ của người tham gia hoạt động cách mạng,..
2. Kết quả
giám sát đối với Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân
- Tòa án nhân dân
tối cao:
trong kỳ báo cáo, số vụ việc đề nghị Tòa án các cấp xem xét theo thủ tục giám
đốc thẩm, tái thẩm là 12.372 vụ[29],
đã xem xét, giải quyết và trả lời được 2,974 vụ đạt tỷ lệ 24%. Trong số 2.974
vụ được giải quyết, đã có 500 vụ (chiếm 16,8%) được kháng nghị theo thủ tục
giám đốc thẩm, tái thẩm[30].
Trong kỳ, các cơ quan của Quốc hội, Đoàn
ĐBQH đã chuyển đến Tòa án nhân dân tối cao, các Tòa án nhân dân cấp cao 299 vụ
việc, chủ yếu là đề nghị xem xét, giải quyết theo thủ tục giám đốc thẩm, tái
thẩm[31].
Đến nay, các Tòa án đã xem xét, giải quyết, trả lời được 145/299 vụ việc (đạt
tỷ lệ 48,5%), thấp hơn so với cùng kỳ[32].
Trong 214 vụ việc có nội dung đề nghị xem xét lại các quyết định, bản án đã có
hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đã giải quyết được 74
vụ việc (đạt tỷ lệ 34,5%); trong đó, trả lời: không có căn cứ kháng nghị đối
với 51 vụ và kháng nghị để giải quyết theo thủ tục giám đốc thẩm đối với 23 vụ
(có 02 vụ đã có kết quả xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm); còn lại 140 vụ việc
đều còn trong thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm và đang tiếp tục được xem xét
theo quy định của pháp luật. Đối với 85 vụ việc có nội dung khác, Tòa án nhân
dân đã giải quyết 71 vụ; trong đó, có 17/17 đơn tố cáo cán bộ, thẩm phán đã được
giải quyết, đạt tỷ lệ 100% và đều kết luận tố cáo không có cơ sở.
UBTVQH đã yêu cầu Tòa án nhân dân tối
cao tiếp tục chỉ đạo các đơn vị nghiệp vụ, các Tòa án nhân dân cấp cao xem xét,
giải quyết, trả lời công dân và báo cáo UBTVQH đối với 154 vụ việc (chiếm
51,5%); trao đổi trực tiếp về 02 vụ việc mà công dân thường xuyên gửi đơn khiếu
nại đến Lãnh đạo Quốc hội[33],
đã được Tòa án nhân dân tối cao trả lời không có căn cứ giám đốc thẩm, nhưng
qua nghiên cứu hồ sơ, UBTVQH đề nghị Tòa án nhân dân tối cao xem xét lại vụ
việc theo quy định của pháp luật.
- Viện kiểm sát nhân
dân tối cao:
trong kỳ báo cáo, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các Viện kiểm sát nhân dân
cấp cao thụ lý 14.322 vụ việc, đã xem xét, giải quyết, trả lời được 3.609 vụ,
đạt tỷ lệ 25,1%, cao hơn kỳ trước (kỳ trước 12,6%)[34]. Viện kiểm sát nhân dân các
cấp đã thụ lý 291 đơn về 287 vụ việc do các cơ quan của Quốc hội, Đoàn ĐBQH, ĐBQH
chuyển đến[35]
và đã giải quyết 134 việc, đạt tỷ lệ 47,42%, cao hơn so với cùng kỳ[36]. Trong đó, có 80
việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, chiếm
27,83%; 192 việc thuộc thẩm quyền giải quyết của các Viện kiểm sát nhân dân cấp
cao, chiếm 67,01%; 05 đơn thuộc thẩm quyền giải quyết của Viện kiểm sát nhân
dân các địa phương, chiếm 1,7%; chuyển các cơ quan khác giải quyết theo thẩm
quyền 08 đơn; lưu 02 đơn do đã xem xét, giải quyết nhiều lần, đúng pháp luật. UBTVQH
đề nghị xem xét 04 vụ việc cụ thể mà công dân tiếp tục khiếu nại, gửi đơn đến
lãnh đạo Quốc hội thuộc thẩm quyền, trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân tối
cao[37].
Nhìn chung, tình hình khiếu nại, tố
cáo trong hoạt động tư pháp trong kỳ vẫn diễn biến phức tạp, số lượng đơn đề
nghị giám đốc thẩm, tái thẩm đối với bản án, quyết định có hiệu lực có chiều
hướng gia tăng, chủ yếu là trong lĩnh vực dân sự, hành chính, về hình sự chủ
yếu là đơn kêu oan nhất là sau khi một số trường hợp được minh oan và dư luận
quan tâm như các vụ: ông Nguyễn Thanh Chấn ở Bắc Giang, ông Huỳnh Văn Nén ở
Bình Thuận. UBTVQH yêu cầu lãnh đạo Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân
dân tối cao có giải pháp hiệu quả về tổ chức và cán bộ để tăng tỷ lệ giải quyết
đơn đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đảm bảo chỉ tiêu theo
Nghị quyết của Quốc hội[38],
khẩn trương rà soát xem xét, xử lý dứt điểm các đơn kêu oan.
3. Kết quả
giám sát việc thực hiện công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo
tại 06 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
3.1. Về công tác tiếp
dân, giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo của công dân
Lãnh đạo các địa phương đã nghiêm túc
triển khai thực hiện Luật Tiếp công dân và Nghị định số 64/2014/NĐ-CP ngày
26/6/2014 quy định chi tiết một số điều của Luật Tiếp công dân. Theo đó đã kiện
toàn Ban tiếp công dân cấp tỉnh, cấp huyện, ban hành nội quy, quy chế phối hợp
trong công tác tiếp công dân, nâng cấp cơ sở vật chất, trang bị các phương tiện
làm việc của Trụ sở tiếp công dân. Đến nay, các Ban Tiếp công dân ở các địa
phương đã thực hiện việc tiếp công dân theo đúng quy định. Định kỳ hàng tháng,
lãnh đạo tỉnh, thành phố cơ bản đã thực hiện việc tiếp công dân. Qua hoạt động
tiếp công dân, lãnh đạo tỉnh, thành phố đã kịp thời chỉ đạo cơ quan, tổ chức,
cá nhân có thẩm quyền khẩn trương giải quyết các vụ việc công dân khiếu nại, tố
cáo, tập trung giải quyết các khiếu nại đông người, phức tạp mới phát sinh
trên địa bàn để ổn định tình hình tại địa phương.
Trong năm 2015 và 06 tháng đầu năm
2016, các cấp, các ngành của 06 tỉnh nhận được 18.106 đơn thư khiếu nại, tố cáo;
qua nghiên cứu, phân loại có 12.554 vụ việc thuộc thẩm quyền, trong đó có 9.999
vụ việc khiếu nại (chiếm 79,6%) , 2.555 vụ việc tố cáo (chiếm 20,4%). Kết quả
giải quyết như sau:
- Về khiếu nại: đã giải quyết được 8.118
vụ việc (đạt 81,2%); đang giải quyết 1.187 vụ việc (chiếm 18,8%); trong đó có
721 khiếu nại đúng (chiếm 8,9%), 1.299 khiếu nại có đúng, có sai (chiếm 16%),
khiếu nại sai 5.407 (chiếm 66,6%). Số vụ việc rút đơn, hòa giải thành là 691
(chiếm 8,5%).
- Về tố cáo: đã giải quyết được 2.029
vụ việc (đạt 79,4%), đang giải quyết 526 vụ việc (chiếm 20,6%). Trong đó, tố
cáo đúng 151 vụ việc (chiếm 7,4%), có đúng có sai 750 vụ việc (chiếm 30,7%), tố
cáo sai 1.116 vụ việc (chiếm 55%), rút đơn là 12 vụ việc (chiếm 0,6%).
Trong số các vụ việc trên, có 169 vụ
việc khiếu nại, tố cáo do các cơ quan của Quốc hội, Ban Dân nguyện, Đoàn ĐBQH,
ĐBQH chuyển đến. Các cơ quan có thẩm quyền của địa phương đã giải quyết xong 79
vụ việc, đạt 47%, đang giải quyết 90 vụ việc.
Qua đánh giá kết quả giải quyết của
các cơ quan có thẩm quyền cho thấy: khoảng 70% khiếu nại, tố cáo liên quan đến
lĩnh vực đất đai, áp giá bồi thường, giải phóng mặt bằng, tái định cư; số lượng
công dân khiếu nại đúng và đúng một phần chiếm 24,9%; tố cáo đúng và đúng một phần
chiếm 38,1%; số vụ việc đang giải quyết chiếm 39,4%; số vụ việc được giải quyết
ở cấp huyện bị xem xét lại chiếm số lượng đáng kể. Tình hình trên cho thấy, công
tác quản lý Nhà nước về đất đai và việc tổ chức thực hiện chính sách pháp luật
về đất đai còn nhiều tồn tại, bất cập; chất lượng công tác giải quyết khiếu
nại, tố cáo còn hạn chế, vi phạm quy định của pháp luật về quy trình, thủ tục,
thời hiệu, thời hạn và áp dụng pháp luật để giải quyết; số vụ việc được giải
quyết ở cấp huyện bị xem xét lại chiếm số lượng đáng kể.
3.2. Kết quả giám sát
58 vụ việc khiếu nại, tố cáo cụ thể tại 06 địa phương[39]
Qua giám sát tại các địa phương trong
công tác giải quyết đối với 58 vụ việc khiếu nại, tố cáo cụ thể[40], UBTVQH đã nhất trí
việc giải quyết của các cơ quan có thẩm quyền ở địa phương về 21 vụ việc (chiếm
36%); kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xem xét lại đối với 12 vụ việc (chiếm
21%); tham gia ý kiến đối với 24 vụ việc (chiếm 41%) thuộc thẩm quyền giải
quyết của địa phương có vướng mắc; đề nghị báo cáo, cung cấp, thông tin đối với
01 vụ việc để có cơ sở làm việc với cơ quan Trung ương[41].
Ngay sau khi làm việc, lãnh đạo các
địa phương đã nghiêm túc tiếp thu ý kiến của Đoàn giám sát, kịp thời ban hành
văn bản chỉ đạo giải quyết dứt điểm một số vụ việc bức xúc, kéo dài; giao việc
đến từng cơ quan, ban ngành tham mưu, đề xuất việc giải quyết và có phương án
khắc phục những tồn tại, hạn chế trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo[42].
Qua giám sát tại 06 địa phương đối với
58 vụ việc cụ thể thấy nổi lên một số vấn đề đáng chú ý sau:
- Chính sách pháp luật về đất đai,
nhất là quy định về áp giá đền bù, bồi thường trong có nhiều thay đổi, không
thống nhất, trong khi đó việc thu hồi đất lại thực hiện kéo dài qua nhiều giai
đoạn, dự án chậm triển khai thực hiện, áp giá đền bù khác nhau dẫn đến không
công bằng gây bức xúc cho các hộ dân, như vụ việc khiếu nại đông người của các
hộ dân tỉnh Bình Dương về dự án Trường đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh;
dự án Khu công nghiệp Cẩm Điền, Cẩm Giàng, Hải Dương... Mặt khác, việc thu hồi
đất, giải phóng mặt bằng, áp giá đền bù, hỗ trợ có nơi làm chưa đúng quy trình,
thủ tục, áp dụng pháp luật chưa đúng dẫn đến phát sinh nhiều khiếu nại, tố cáo,
như: việc thực hiện Dự án Khu công nghệ cao ở quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh,
khi thu hồi đất không ban hành Quyết định phê duyệt về phương án bồi thường và
thu hồi 284 ha đất nằm ngoài Dự án đã được Chính phủ phê duyệt.
- Việc quản lý đất nông nghiệp, đất
công ích (5%) của cấp xã còn buông lỏng, nhiều nơi cho thuê đất trái thẩm quyền,
người được nhận thuê đất tự ý chuyển đổi sai mục đích sử dụng đất; xử lý vi
phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai chưa nghiêm; việc giải quyết khiếu nại
chưa hợp tình, hợp lý làm phát sinh khiếu nại, tố cáo, như việc giải quyết
khiếu nại của ông Vũ Trọng Phường ở cồn Vĩnh Trụ, thôn Trụ Hạ, xã Đồng Lạc, Chí
Linh, Hải Dương; việc khiếu nại của bà Lê Thị Bích Thịnh và một số hộ dân ở
phường Nhật Tân, quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội liên quan đến việc thu hồi đất
nông nghiệp để thực hiện dự án xây dựng Trường mầm non Nhật Tân 2 và dự án xây
dựng Nhà khách UBND thành phố Hà Nội,..
- Công tác tổ chức triển khai thực
hiện các quy định về quản lý đất đai, nhất là việc kiểm kê, đo đạc thiếu chính
xác, còn để người dân lấn chiếm đất công; việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất còn chậm chễ, buông lỏng trong thời gian dài dẫn tới khó khăn trong việc
giải quyết tranh chấp đất đai; việc áp giá đền bù thiệt hại khi thu hồi đất
không thống nhất trong cùng một dự án làm phát sinh khiếu nại, tố cáo, như:
khiếu nại của một số hộ dân bị thu hồi đất để thực hiện dự án nâng cấp, cải tạo
Quốc lộ 18A đoạn Uông Bí - thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh; khiếu nại của
Hợp tác xã may mặc Thống Nhất, thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương; việc giải quyết
xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Phan Văn Phùng ở khu phố 5,
phường Nhơn Phú B, quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh,..
- Năng lực đội ngũ cán bộ cấp cơ sở làm
công tác thẩm tra, xác minh và tham mưu cấp có thẩm quyền giải quyết khiếu nại,
tố cáo còn hạn chế, thiếu trách nhiệm trong thực thi công vụ dẫn đến kết quả
giải quyết không đúng, không khách quan, như việc giải quyết khiếu nại của bà
Nguyễn Thị Quý Dung ở phường Kiến Hưng, quận Hà Đông, Hà Nội về việc tách thửa
đất nằm trong khu đấu giá quyền sử dụng đất,..
- Kỷ cương, kỷ luật hành chính ở nhiều
nơi còn bị xem nhẹ, nhiều vụ việc đã được cơ quan có thẩm quyền cấp trên xem
xét, chỉ đạo giải quyết nhưng cấp dưới không thực hiện hoặc chậm triển khai hiện
gây bức xúc cho công dân như vụ việc tố cáo của ông Nguyễn Kiên Trực là đúng và
UBND thành phố nhiều lần chỉ đạo Chủ tịch UBND quận Cầu Giấy phải xem xét, giải
quyết dứt điểm, nhưng vụ việc để kéo dài, chậm được giải quyết[43].
4. Kết quả giám
sát việc thực hiện kiến nghị của UBTVQH tại Báo cáo giám sát về việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo của công dân gửi đến Quốc hội năm 2015
Qua theo dõi kết quả thực hiện kiến
nghị của UBTVQH tại Báo cáo kết quả giám sát số 984/BC-UBTVQH14 ngày 05/11/2015
về việc giải quyết đơn, thư khiếu nại, tố cáo của công dân gửi đến Quốc hội năm
2015 cho thấy, ngay sau khi kết quả giám sát được chuyển đến các cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền, ngày 25/11/2015, Văn phòng Chính phủ đã có văn bản số
9749/VPCP-VI thông báo ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Chính phủ giao Tổng
Thanh tra Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường, Chủ tịch Ủy ban
nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương để tổ chức thực hiện kiến
nghị giám sát của UBTVQH. Theo đó, ngày 01/4/2016, Thanh tra Chính phủ đã ban
hành Kế hoạch số 763/KH-TTCP, trong đó đã phối hợp với các bộ, ngành tiến hành sơ
kết việc thực hiện Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo, Luật Tiếp công dân, rà soát lại
các quy định hướng dẫn thi hành để trình cấp có thẩm quyền xem xét, sửa đổi; rà
soát lại những vụ việc khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền; chỉ đạo các Cục địa
bàn phối hợp chặt chẽ với Ủy ban nhân dân các tỉnh có vụ việc khiếu nại, tố cáo
mà UBTVQH đã kiến nghị để rà soát, giải quyết.
Theo báo cáo của Thanh tra Chính phủ,
trong số 38 vụ việc UBTVQH có kiến nghị sau giám sát, có 12 vụ việc đã giải
quyết; 02 vụ việc đã giải quyết xong một phần; 18 vụ việc có văn bản trả lời
đang trong quá trình giải quyết; 06 vụ việc chưa nhận được văn bản trả lời,
thông báo tiến độ giải quyết[44]. Qua nghiên
cứu kết quả giải quyết của các cơ quan chức năng cho thấy: có những vụ việc
UBTVQH đã kiến nghị và nhiều lần có văn bản đôn đốc, nhưng đến nay chưa được
giải quyết dứt điểm, công dân vẫn gửi nhiều đơn thư đến Lãnh đạo Quốc hội, các
cơ quan của Quốc hội, như vụ việc khiếu nại của ông Tạ Tuyên ở 38 Hàng Giầy,
Hoàn Kiếm, Hà Nội; khiếu nại của bà Nguyễn Thị Kim Hoa ở Kiên Lương, Kiên Giang.
Có trường hợp báo cáo đã kiểm tra, xác minh lại nhưng vẫn chưa làm rõ được vấn
đề công dân khiếu nại, chưa làm rõ được mâu thuẫn trong lời khai của nhân chứng
với tài liệu của cơ quan Công an tỉnh thu thập được, như trong việc giải quyết
tranh chấp đất đai giữa ông Huỳnh Cạnh và ông Tôn Thất Thiện ở Đăk Lắc.
5. Tồn tại,
hạn chế và nguyên nhân
5.1. Tồn tại, hạn chế
- Công tác tiếp công dân, đối thoại
của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại ở một số đơn vị còn chưa được
triển khai có hiệu quả, còn hình thức; chưa đúng quy định của Luật Khiếu nại,
Luật Tiếp công dân; chưa khách quan trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo. Hầu
hết người đứng đầu cơ quan hành chính cấp tỉnh, cấp huyện chưa tiếp công dân mà
ủy quyền cho cấp phó của mình thực hiện. Việc thực hiện đối thoại bắt buộc khi
giải quyết khiếu nại lần 2 lại chủ yếu được ủy quyền cho cán bộ cơ quan thẩm
tra, xác minh thực hiện.
- Công tác tiếp nhận, phân loại, xử lý
đơn thư có những trường hợp chưa chính xác; việc thụ lý, thẩm tra, xác minh
trong giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo ở một số đơn vị còn chưa đúng quy định; một
số vụ việc khiếu nại, tố cáo chưa được cơ quan, cá nhân có thẩm quyền quan tâm
giải quyết dứt điểm hoặc việc giải quyết chưa đúng bản chất của vấn đề; tình
trạng ban hành thông báo thay cho quyết định giải quyết khiếu nại còn khá phổ
biến; việc tổ chức thực hiện các quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực
pháp luật, các kết luận, quyết định xử lý về tố cáo tại một số nơi còn chậm
khiến người dân bức xúc[45].
- Việc giải quyết dứt điểm các vụ việc
phức tạp, tồn đọng, kéo dài theo Kế hoạch 1130/KH-TTCP và Kế hoạch 2100/KH-TTCP
của Thanh tra Chính phủ tại một số địa phương chưa được quan tâm đúng mức; quy
trình giải quyết các vụ việc tồn đọng, phức tạp, kéo dài còn gặp khó khăn, vướng
mắc do chưa có hướng dẫn cụ thể; nhiều vụ việc khiếu nại, tố cáo đã được giải
quyết đúng quy định của pháp luật nhưng người dân cố tình không chấp hành, tiếp
tục khiếu nại.
- Một số địa phương chưa chủ động
trong việc kiểm tra, thanh tra trách nhiệm, thiếu kiên quyết trong việc xem
xét, kiểm điểm và xử lý đối với người có sai phạm. thiếu trách nhiệm trong việc
giải quyết khiếu nại, tố cáo.
- Việc xét xử các vụ việc công dân
khởi kiện quyết định hành chính của cơ quan nhà nước chủ yếu tập trung xem xét việc
ban hành quyết định hành chính có đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục hay không
mà chưa đi sâu vào nội dung, bản chất mà công dân khiếu nại[46]; kết quả xét xử thường là
bác đơn của công dân. Vì vậy, nhiều trường hợp công dân không muốn thực hiện
quyền khởi kiện ra tòa án mà tiếp tục khiếu nại hành chính, dẫn đến việc giải
quyết không có điểm dừng.
- Việc đôn đốc, kiểm tra của Tòa án
nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong công tác giải quyết đơn
khiếu nại, tố cáo còn hạn chế, tỷ lệ giải quyết còn thấp, không đạt chỉ tiêu theo
Nghị quyết của Quốc hội; có bản án của tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng
khó khăn trong việc thi hành; việc hướng dẫn, giải thích pháp luật cho người
khiếu nại, tố cáo chưa được quan tâm đúng mức; còn có trường hợp giải quyết
khiếu nại không ban hành quyết định giải quyết; việc giải quyết và trả lời các
đơn đề nghị của công dân do các cơ quan của Quốc hội, của UBTVQH, Đoàn ĐBQH,
ĐBQH chuyển đến còn chậm.
5.2. Nguyên nhân
5.2.1. Về nguyên nhân
khách quan:
- Quy định của Luật Khiếu nại về thời
hạn, thời hiệu thụ lý giải quyết, về điều kiện để thụ lý hoặc không thụ lý giải
quyết khiếu nại còn bất cập. Trên thực tế nhiều vụ việc mặc dù đã được giải
quyết hết thẩm quyền, đúng quy định nhưng công dân không chấp nhận, vẫn tiếp
tục khiếu nại đề nghị xem xét giải quyết vì cho rằng quyền lợi của mình bị vi
phạm.
- Chính sách pháp luật về đất đai còn
bất cập, thay đổi trong từng thời kỳ nhất là quy định bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư khi thu hồi đất dẫn đến việc áp dụng khó khăn trong thực tiễn. Một số
dự án có tiến độ bồi thường và bố trí tái định cư chậm, việc áp giá bồi thường
trước và sau chênh lệch dẫn đến người dân so bì, không chấp nhận đơn giá bồi
thường và khiếu nại.
- Một số cơ quan, cá nhân có thẩm
quyền tiếp công dân còn hình thức, chưa gắn với việc giải quyết khiếu nại, tố
cáo; chưa nghiêm túc thực hiện chức trách, nhiệm vụ theo quy định của pháp
luật.
5.2.2. Về nguyên nhân
chủ quan:
- Hoạt động thanh tra, kiểm tra trách
nhiệm của thủ trưởng cơ quan, đơn vị trong công tác tiếp công dân, giải quyết
khiếu nại, tố cáo của công dân còn chưa thường xuyên; chất lượng, hiệu quả hạn
chế.
- Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức
làm công tác tiếp công dân, tham mưu giải quyết khiếu nại, tố cáo còn hạn chế
cả về năng lực và trách nhiệm phục vụ người dân.
- Việc triển khai kiện toàn tổ chức và
hoạt động của Tòa án nhân dân cấp cao, Viện kiểm sát nhân dân cấp cao theo luật
tổ chức mới còn chậm; đội ngũ cán bộ chưa được bổ sung kịp thời; một bộ phận
cán bộ thiếu tính chuyên nghiệp trong khi phải giải quyết số lượng lớn đơn đề
nghị giám đốc thẩm, tái thẩm vốn trước đây do Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa
án nhân dân tối cao giải quyết dẫn đến tỷ lệ đơn được giải quyết thấp.
- Nhận thức của một số công dân về
những quy định của pháp luật về đất đai, về khiếu nại, tố cáo còn hạn chế; còn
có tâm lý khiếu nại cầu may; có những trường hợp cố tình không chấp hành các
quyết định giải quyết khiếu nại có căn cứ và đúng pháp luật.
III. KIẾN
NGHỊ
Để góp phần nâng cao chất lượng, hiệu
quả công tác tiếp công dân, xử lý đơn, thư, giám sát việc giải quyết khiếu nại,
tố cáo và nâng cao trách nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền trong giải quyết
khiếu nại, tố cáo, UBTVQH có một số yêu cầu, kiến nghị như sau:
1. Yêu cầu các cơ quan của Quốc hội, các
ban của UBTVQH, Đoàn ĐBQH, ĐBQH quan tâm, tăng cường hơn công
tác tiếp công dân, xử lý đơn thư và giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo,
nhất là đối với những vụ việc khiếu nại, tố cáo cụ thể. Thường trực Hội đồng
dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, các Đoàn ĐBQH, ĐBQH
có trách nhiệm phối hợp chặt chẽ với Ban dân nguyện trong công tác tiếp công
dân, xử lý đơn, thư và giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo.
2. Giao Ban
Dân nguyện chủ trì, phối hợp với các cơ quan hữu quan tiến hành tổng kết việc
thực hiện Nghị quyết 228, Nghị quyết 694, sơ kết việc thực hiện Nghị quyết 759
và đề xuất sửa đổi, bổ sung các nghị quyết trên, trong đó có quy định cụ thể về
việc định kỳ tiếp công dân của các cơ quan của Quốc hội, mối quan hệ phối hợp
giữa Ban Dân nguyện và Thường trực Hội đồng, Ủy ban; nghiên cứu làm rõ mô hình
tổ chức tiếp công dân của Quốc hội và tăng cường cơ sở vật chất, các điều kiện
khác để bảo đảm vai trò tiếp công dân của Quốc hội; chủ trì, phối hợp với Văn
phòng Quốc hội, Thanh tra Chính phủ xây
dựng phần
mềm và cơ sở dữ liệu quản lý về tiếp nhận, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo dùng chung cho Hội đồng dân tộc, Ủy ban
của Quốc hội, các ban của UBTVQH và các Đoàn ĐBQH.
3.
Yêu
cầu Chính phủ chỉ đạo các Bộ, ngành và lãnh đạo các cấp của địa phương nhất là
cấp cơ sở tăng cường, thực hiện có hiệu quả công tác tiếp công dân, giải quyết
khiếu nại, tố cáo đúng quy định của pháp luật; thường xuyên thanh tra, kiểm tra
trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị trong công tác tiếp công dân,
giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý trách nhiệm đối với cá nhân có sai phạm; chỉ
đạo các cơ quan, đơn vị hữu quan nghiên cứu, nghiêm túc thực hiện các kiến nghị
của UBTVQH trong việc giải quyết vụ việc khiếu nại, tố cáo cụ thể được nêu
trong báo cáo và Phụ lục kèm theo báo cáo này; có giải pháp khắc phục những tồn
tại, hạn chế trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo.
4.
Giao Chính phủ tiếp tục tổng kết, đánh giá
việc thực hiện Nghị quyết 23, Nghị quyết 755 (giai đoạn từ 2010 đến nay);
phân công Ủy ban Pháp luật[47] chủ trì thẩm
tra kết quả tổng kết, sớm đề xuất phương án xử lý những khiếu nại
về nhà đất do nhà nước đã quản lý, bố trí sử dụng trong quá trình thực hiện các
chính sách quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa trước ngày
01/7/1991 và báo cáo UBTVQH vào cuối năm 2017.
5. Giao Chính phủ chỉ đạo khẩn trương
tiến hành sơ kết, đánh giá tình hình thực hiện Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo, Luật
Tiếp công dân và các văn bản hướng dẫn, đề xuất sửa đổi, bổ sung, khắc phục
những tồn tại, bất cập nhằm đảm bảo tính thống nhất trong triển khai thực hiện,
tăng cường trách nhiệm của các cơ quan, người có thẩm quyền, tạo cơ sở pháp lý
chặt chẽ cho việc xử lý các vi phạm pháp luật về khiếu nại, tố cáo và tiếp công
dân.
6. Yêu cầu Chánh
án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao tập
trung chỉ đạo, yêu cầu Tòa án, Viện kiểm sát các cấp có biện pháp khắc phục
những tồn tại, yếu kém trong việc thụ lý, giải quyết các vụ án dân sự, hành
chính, hình sự; nâng cao tỷ lệ giải quyết khiếu nại, tố cáo, bảo đảm thực hiện chỉ
tiêu theo các nghị quyết của Quốc hội khóa XIII; giải quyết, trả lời kịp thời
các đơn thư khiếu nại, tố cáo do các cơ quan của Quốc hội, Đoàn ĐBQH và ĐBQH
chuyển đến; nghiêm túc thực hiện các kiến nghị của UBTVQH trong việc giải quyết
những vụ việc cụ thể thuộc thẩm quyền.
Trên đây là Báo cáo kết quả tiếp công
dân, xử lý đơn, thư và giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân
gửi đến Quốc hội, UBTVQH xin trân trọng báo cáo Quốc hội./.
Nơi nhận:
-
Các vị đại biểu Quốc hội;
- UBTVQH;
- HĐDT, các Ủy ban của QH;
- Tổng TKQH, VPQH, VNCLP, Ban của UBTVQH;
- VPCP, các bộ, cơ quan ngang bộ;
- TANDTC, VKSNDTC;
- Lưu: HC, DN.
E:
74793
|
TM. ỦY
BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI
KT. CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH
Đỗ Bá Tỵ
|