Tải file Dự thảo án lệ về hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất có điều kiện
Nội dung chính
Tải file Dự thảo án lệ về hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất có điều kiện
Tòa án nhân dân tối cao đã công bố Dự thảo án lệ số 10/2025 về hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất có điều kiện.
Theo Dự thảo án lệ về hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất có điều kiện, nguồn án lệ lấy từ Quyết định giám đốc thẩm số 229/2023/DS-GĐT ngày 15/9/2023 của Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh về vụ án “Tranh chấp yêu cầu hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất” giữa nguyên đơn là bà Võ Thị B với bị đơn là ông Trần Minh T, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm 02 người.
Tình huống án lệ và giải pháp pháp lý được khái quát như sau:
- Về tình huống án lệ: Cha mẹ lập hợp đồng tặng cho con quyền sử dụng đất với điều kiện con phải nuôi cha mẹ đến hết đời. Sau khi người cha chết, người mẹ và người con thỏa thuận người con giao cho người mẹ một khoản tiền để người mẹ sang ở với người con khác đến hết đời.
- Về giải pháp pháp lý: Trường hợp này, Tòa án phải xác định điều kiện của hợp đồng tặng cho đã hoàn thành, hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất có hiệu lực pháp luật.
Theo Dự thảo án lệ về hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất có điều kiện, nhận định của tòa án đối với vụ án này như sau:
[1] Vào ngày 21/10/2009, vợ chồng ông Trần Văn T1, bà Võ Thị B ký kết hợp đồng, tặng cho người con trai, là ông Trần Minh T, thửa đất số 47, tờ bản đồ số 4, diện tích là 2.688,7m2 (diện tích đo đạc thực tế là 2.347,6m2 ) tọa lạc tại ấp L, xã N, thị xã H, tỉnh Tây Ninh (giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số C643001; số vào sổ cấp GCN: 02041 ngày 14/12/1993 do Ủy ban nhân dân huyện H cấp); việc tặng cho kèm theo điều kiện, là ông Trần Minh T phải có trách nhiệm nuôi cha mẹ đến suốt đời; hợp đồng được công chứng tại Phòng Công chứng số 1 tỉnh Tây Ninh.
[2] Trong quá trình thực hiện hợp đồng ngày 21/10/2009, giữa hai bên tham gia ký kết phát sinh tranh chấp, vì bà Võ Thị B cho rằng ông Trần Minh T không thực hiện trách nhiệm nuôi cha mẹ đúng theo sự thỏa thuận tại hợp đồng. Do đó, bà Võ Thị B khởi kiện, yêu cầu hủy một phần hợp đồng lập vào ngày 21/10/2009; yêu cầu ông Trần Minh T trả lại phần đất có diện tích: chiều ngang 6m x chiều dài hết đất.
[3] Điều 6 của hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ngày 21/10/2009 ghi như sau: “Những thỏa thuận khác: có trách nhiệm nuôi cha mẹ đến suốt đờì”.
[4] Trong thực tế xã hội, giao dịch và điều kiện giao dịch như hợp đồng nói trên, vẫn có thể được thiết lập giữa các bên tham gia. Mặc dù vậy, về thực tế khi xảy ra tranh chấp, luôn luôn không đủ bằng chứng rõ ràng để có thể kiểm soát và xét đoán sự thực thi điều kiện “....có trách nhiệm nuôi cha mẹ đến suốt đời...” mà các bên đã giao kết, về phương diện pháp lý; thông thường, việc kiểm soát và xét đoán sự thực thi điều kiện đó, tùy thuộc vào đạo đức và tình cảm của mỗi người cụ thể; đây là lãnh vực không thuộc sự chi phối của pháp luật.
[5] Xét thấy, trong quá trình giải quyết tranh chấp giữa hai bên, tại biên bản hòa giải do Ủy ban nhân dân xã N, huyện H, tỉnh Tây Ninh lập ngày 03/01/2020, đã ghi nhận sự thỏa thuận giữa hai bên như sau:
[6] Ý kiến của bà B: “giao cho tôi 500.000.000 đồng thẳng để cho tôi và con gái tôi có trách nhiệm nuôi tôi suốt đời”;
[7] Kết luận của biên bản hòa giải; “Ông T đồng ý giao cho mẹ 500.000.000 đồng (năm trăm triệu), bà B sẽ ở với con gái tên H; khi bà sống thì số tiền trên lo phụng dưỡng cho mẹ, khi mẹ chết thì giao lại số tiền còn lại cho bà H...”.
[8] Trong thực tế sau đó, ông Trần Minh T đã giao cho bà Võ Thị B số tiền 500.000.000 đồng theo đúng biên bản nói trên.
[9] Như vậy, có căn cứ để xác định rằng số tiền 500.000.000 đồng mà ông Trần Minh T giao cho bà Võ Thị B, là tiền phụng dưỡng, chu cấp để bà Võ Thị B sống với bà Trần Thị H (là một trong những người con của bà Võ Thị B) cho đến cuối đời và sự thỏa thuận này giữa hai bên (bà Võ Thị B và ông Trần Minh T) đã thực hiện xong, về mặt pháp lý, sự thỏa thuận như vậy cũng chính thức xác nhận rằng kể từ khi bà Võ Thị B nhận đủ số tiền 500.000.000 đồng trở đi, thì đương sự không còn bất cứ quyền lợi gì đối với thửa đất đã tặng cho ông Trần Minh T vào ngày 21/10/2009.
[10] Với những tài liệu, chứng cứ và tình tiết của vụ án dẫn chiếu nói trên, thì có căn cứ kết luận rằng Bản án phúc thẩm số 22/2023/DS-PT ngày 11/01/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh là đúng pháp luật.
Tải file Dự thảo án lệ về hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất có điều kiện

Tải file Dự thảo án lệ về hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất có điều kiện (Hình từ Internet)
Khi nào Dự thảo án lệ về hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất có điều kiện được xem xét thông qua?
Theo khoản 2 Điều 6 Nghị quyết 04/2019/NQ-HĐTP (được sửa đổi bởi khoản 1 Điều 5 Nghị quyết 02/2025/NQ-HĐTP), án lệ được xem xét thông qua khi thuộc một trong các trường hợp sau:
- Được phát triển từ bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án và đã được lấy ý kiến theo hướng dẫn tại Điều 4 và Điều 5 Nghị quyết 04/2019/NQ-HĐTP;
- Được Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đề xuất;
- Được Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh đề xuất;
- Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao lựa chọn khi xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm.
Như vậy, Dự thảo án lệ về hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất có điều kiện được xem xét thông qua nếu thuộc một trong các trường hợp nêu trên.
