Việt Nam chính thức phê chuẩn tham gia Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 từ?
Nội dung chính
Việt Nam chính thức phê chuẩn tham gia Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 từ?
Việt Nam chính thức phê chuẩn tham gia Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 từ vào năm 1994. Đây là một dấu mốc quan trọng trong chính sách đối ngoại và chiến lược biển của Việt Nam, thể hiện cam kết tôn trọng và tuân thủ các quy tắc của luật pháp quốc tế về biển.
Công ước của Liên hợp quốc 1982 là văn kiện pháp lý quốc tế quan trọng, quy định toàn diện về các vấn đề liên quan đến vùng biển, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia và các hoạt động hàng hải. Công ước thiết lập cơ sở pháp lý cho việc phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) và thềm lục địa của các quốc gia ven biển, trong đó có Việt Nam.
Việc phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc 1982 giúp Việt Nam bảo vệ chủ quyền biển đảo, đặc biệt trong bối cảnh có nhiều tranh chấp trên Biển Đông. Đồng thời, Việt Nam có cơ sở để hợp tác với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới về các vấn đề như khai thác tài nguyên biển, bảo vệ môi trường biển và đảm bảo an toàn hàng hải.
Từ khi tham gia, Việt Nam luôn thể hiện tinh thần tuân thủ các quy định của Công ước, đồng thời tích cực thúc đẩy việc giải quyết tranh chấp trên biển bằng biện pháp hòa bình, phù hợp với luật pháp quốc tế. Đây là bước đi quan trọng trong việc khẳng định lập trường của Việt Nam về chủ quyền biển đảo và lợi ích quốc gia trên biển.

Việt Nam chính thức phê chuẩn tham gia Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 từ? (Hình từ Internet)
Nhà nước áp dụng thành tựu khoa học kỹ thuật bảo vệ môi trường biển?
Căn cứ Điều 3 Luật Biển Việt Nam 2012 về chính sách quản lý và bảo vệ biển quy định như sau:
Chính sách quản lý và bảo vệ biển
1. Phát huy sức mạnh toàn dân tộc và thực hiện các biện pháp cần thiết bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia trên các vùng biển, đảo và quần đảo, bảo vệ tài nguyên và môi trường biển, phát triển kinh tế biển.
2. Xây dựng và thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch quản lý, sử dụng, khai thác, bảo vệ các vùng biển, đảo và quần đảo một cách bền vững phục vụ mục tiêu xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh.
3. Khuyến khích tổ chức, cá nhân đầu tư lao động, vật tư, tiền vốn và áp dụng thành tựu khoa học kỹ thuật, công nghệ vào việc sử dụng, khai thác, phát triển kinh tế biển, bảo vệ tài nguyên và môi trường biển, phát triển bền vững các vùng biển phù hợp với điều kiện của từng vùng biển và bảo đảm yêu cầu quốc phòng, an ninh; tăng cường thông tin, phổ biến về tiềm năng, chính sách, pháp luật về biển.
4. Khuyến khích và bảo vệ hoạt động thủy sản của ngư dân trên các vùng biển, bảo hộ hoạt động của tổ chức, công dân Việt Nam ngoài các vùng biển Việt Nam phù hợp với điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, pháp luật quốc tế, pháp luật của quốc gia ven biển có liên quan.
5. Đầu tư bảo đảm hoạt động của các lực lượng làm nhiệm vụ tuần tra, kiểm soát trên biển, nâng cấp cơ sở hậu cần phục vụ cho các hoạt động trên biển, đảo và quần đảo, phát triển nguồn nhân lực biển.
6. Thực hiện các chính sách ưu tiên đối với nhân dân sinh sống trên các đảo và quần đảo; chế độ ưu đãi đối với các lực lượng tham gia quản lý và bảo vệ các vùng biển, đảo và quần đảo.
Như vậy, Nhà nước khuyến khích tổ chức, cá nhân đầu tư lao động, vật tư, tiền vốn và áp dụng thành tựu khoa học kỹ thuật, công nghệ vào việc sử dụng, khai thác, phát triển kinh tế biển, bảo vệ tài nguyên và môi trường biển, phát triển bền vững các vùng biển phù hợp với điều kiện của từng vùng biển và bảo đảm yêu cầu quốc phòng, an ninh.
