Việc từ chối hưởng di sản thừa kế theo di chúc có được hưởng thừa kế theo pháp luật không?
Nội dung chính
Việc từ chối hưởng di sản thừa kế theo di chúc có được hưởng thừa kế theo pháp luật không?
Ban biên tập cho tôi hỏi. Trường hợp một người được chia thừa kế theo di chúc nhưng họ đã từ chối nhận, khi sử dụng phần di sản đó theo pháp luật thì họ có quyền nhận nữa không?
Trả lời: Tại Điều 650 Bộ luật Dân sự 2015, có quy định: về thừa kế theo pháp luật như sau:
- Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong trường hợp sau đây:
+ Không có di chúc;
+ Di chúc không hợp pháp;
+ Những người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế;
+ Những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà không có quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.
- Thừa kế theo pháp luật cũng được áp dụng đối với các phần di sản sau đây:
+ Phần di sản không được định đoạt trong di chúc;
+ Phần di sản có liên quan đến phần của di chúc không có hiệu lực pháp luật;
+ Phần di sản có liên quan đến người được thừa kế theo di chúc nhưng họ không có quyền hưởng di sản, từ chối nhận di sản, chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; liên quan đến cơ quan, tổ chức được hưởng di sản theo di chúc, nhưng không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.
Như vậy, việc chia thừa kế theo pháp luật được thực hiện đối với phần di sản trong đó có, người được hưởng thừa kế theo pháp luật từ chối nhận di sản thừa kế. Do vậy, theo chúng tôi thì những người từ chối nhận di sản thừa kế theo di chúc sẽ không được nhận phần di sản thừa kế theo pháp luật.
Đất không có sổ đỏ có được chia thừa kế không?
Ông bà nội em có mảnh đất 4500m² không có giấy tờ. Ông nội mất từ năm 2015. Bà nội em mới chia mảnh đất cho 2 con trai còn không chia cho con gái (việc chia này không có giấy tờ), hiện tại cô em yêu cầu phải chia QSDĐ đó cho cô em. Vậy cho em hỏi: Cô em được hưởng không ạ? Ông bà em có 3 người con.
Trả lời: Theo Điểm 1.3 Khoản 1 Mục II Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP quy định:
Trường hợp người chết để lại quyền sử dụng đất mà đất đó không có một trong các loại giấy tờ về QSDĐ theo quy định nhưng có di sản là nhà ở, vật kiến trúc khác gắn liền với quyền sử dụng đất đó mà có yêu cầu chia di sản thừa kế, thì cần phân biệt các trường hợp sau:
- Trong trường hợp đương sự có văn bản của Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền xác nhận việc sử dụng đất đó là hợp pháp, nhưng chưa kịp cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thì Toà án giải quyết yêu cầu chia di sản là tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất và quyền sử dụng đất đó.
- Trong trường hợp đương sự không có văn bản của Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền xác nhận việc sử dụng đất đó là hợp pháp, nhưng có văn bản của Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền cho biết rõ là việc sử dụng đất đó không vi phạm quy hoạch và có thể được xem xét để giao quyền sử dụng đất, thì Toà án giải quyết yêu cầu chia di sản là tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất. Đồng thời phải xác định ranh giới, tạm giao quyền sử dụng đất đó cho đương sự để Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền tiến hành các thủ tục giao quyền sử dụng đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho đương sự theo quy định của pháp luật về đất đai.
- Trong trường hợp Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền có văn bản cho biết rõ việc sử dụng đất đó là không hợp pháp, di sản là tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất không được phép tồn tại trên đất đó, thì Toà án chỉ giải quyết tranh chấp về di sản là tài sản trên đất đó.
*Trường hợp 1: QSDĐ mà ông bà bạn để lại có văn bản của UBND cấp có thẩm quyền xác nhận việc dụng hợp pháp hoặc không không có văn bản xác nhận sử dụng hợp pháp nhưng không vi phạm quy hoạch và có thể được xem xét để giao quyền sử dụng đất.
=>Toà án giải quyết yêu cầu chia di sản là tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất và quyền sử dụng đất đó.
Mặt khác, theo Khoản 1 Điều 651 Bộ luật dân sự 2015 quy định các hàng thừa kế như sau:
- Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
- Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
- Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
Cho nên theo thông tin bạn cung cấp thì cô bạn - con gái của ông bạn sẽ được hưởng phần di sản theo quy định pháp luật.
*Trường hợp 2: Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền có văn bản cho biết rõ việc sử dụng đất đó là không hợp pháp, di sản là tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất không được phép tồn tại trên đất đóQSDĐ mà ông bà bạn để lại không có văn bản của UBND cấp có thẩm quyền xác nhận việc dụng hợp pháp.
=> Sẽ không công nhận di sản theo quy định pháp luật.
Trường hợp nào không được hưởng thừa kế nhà, đất?
Theo quy định hiện hành thì người thừa kế sẽ được hưởng di sản là quyền sử dụng đất, nhà ở theo di chúc hoặc theo pháp luật. Vậy: Trường hợp nào sẽ không được hưởng thừa kế nhà, đất?
Trả lời: Theo quy định tại Điều 621 Bộ luật Dân sự 2015 thì những trường hợp sau đây không được quyền hưởng di sản (bao gồm nhà, đất):
- Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó;
- Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản;
- Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng;
- Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc, che giấu di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản.
Như vậy, khi thuộc vào các trường hợp nêu trên thì cá nhân sẽ không được quyền hưởng di sản (bao gồm nhà, đất).
Ngoại lệ: Những người này vẫn được hưởng di sản, nếu người để lại di sản đã biết hành vi của những người đó, nhưng vẫn cho họ hưởng di sản theo di chúc.