Từ 1/8/2024, trường hợp nào kinh doanh bất động sản không phải thành lập doanh nghiệp?
Nội dung chính
Nguyên tắc kinh doanh bất động sản là gì?
Căn cứ theo khoản 1 Điều 3 Luật Kinh doanh bất động sản 2023 thì kinh doanh bất động sản là hoạt động nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận thông qua việc bỏ vốn để tạo lập nhà ở, công trình xây dựng, quyền sử dụng đất đã có hạ tầng kỹ thuật trong dự án bất động sản để bán, chuyển nhượng; cho thuê, cho thuê lại, cho thuê mua nhà ở, công trình xây dựng; cho thuê, cho thuê lại quyền sử dụng đất đã có hạ tầng kỹ thuật trong dự án bất động sản; chuyển nhượng dự án bất động sản; kinh doanh dịch vụ bất động sản.
Theo đó, căn cứ theo Điều 4 Luật Kinh doanh bất động sản 2023 thì việc kinh doanh bất động sản phải đáp ứng các nguyên tắc sau:
- Công khai, minh bạch; tự do thỏa thuận trên cơ sở tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của các bên thông qua hợp đồng, không vi phạm điều cấm của luật.
- Bất động sản, dự án bất động sản đưa vào kinh doanh phải đáp ứng các điều kiện theo quy định tại Luật Kinh doanh bất động sản 2023
- Tổ chức, cá nhân được kinh doanh bất động sản ngoài phạm vi khu vực bảo vệ theo quy định của pháp luật về quốc phòng, an ninh.
Kinh doanh bất động sản ( Hình từ Internet)
Trường hợp nào kinh doanh bất động sản không phải thành lập doanh nghiệp?
Theo khoản 1 Điều 9 Luật Kinh doanh bất động sản 2023 thì tổ chức, cá nhân khi kinh doanh bất động sản phải thành lập doanh nghiệp theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp hoặc thành lập hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã theo quy định của pháp luật về hợp tác xã, có ngành, nghề kinh doanh bất động sản, tuy nhiên việc thành lập doanh nghiệp sẽ không áp dụng đối với các trường hợp tại khoản 3, khoản 4 Điều 9 Luật Kinh doanh bất động sản 2023.
Từ đó dẫn chiếu đến khoản 3 và khoản 4 Điều 9 Luật Kinh doanh bất động sản 2023 thì các trường hợp không phải thành lập doanh nghiệp khi hoạt động kinh doanh bất động sản bao gồm:
- Cá nhân kinh doanh bất động sản quy mô nhỏ không phải thành lập doanh nghiệp kinh doanh bất động sản nhưng phải kê khai nộp thuế.
- Tổ chức, cá nhân bán nhà ở, công trình xây dựng, phần diện tích sàn xây dựng trong công trình xây dựng không nhằm mục đích kinh doanh hoặc bán, cho thuê, cho thuê mua nhà ở, công trình xây dựng, phần diện tích sàn xây dựng trong công trình xây dựng dưới mức quy mô nhỏ thì không phải tuân thủ các quy định theo Luật Kinh doanh bất động sản 2023 nhưng phải kê khai nộp thuế theo quy định của pháp luật. Vì vậy, tổ chức , cá nhân bán nhà ở, công trình xây dựng, phần diện tích sàn xây dựng trong công trình xây dựng không nhằm mục đích kinh doanh hoặc bán, cho thuê, cho thuê mua nhà ở, công trình xây dựng, phần diện tích sàn xây dựng trong công trình xây dựng dưới mức quy mô nhỏ không cần phải thành lập doanh nghiệp. Ngoài ra, cá nhân bán, cho thuê mua nhà ở, công trình xây dựng, phần diện tích sàn xây dựng trong công trình xây dựng thì còn phải thực hiện công chứng, chứng thực theo khoản 5 Điều 44 Luật Kinh doanh bất động sản 2023.
Xác định các trường hợp kinh doanh bất động sản không phải thành lập doanh nghiệp theo các tiêu chí nào?
Căn cứ theo Điều 7 Nghị định 96/2024/NĐ-CP thì tiêu chí để xác định các trường hợp kinh doanh bất động sản không phải thành lập doanh nghiệp được chia theo hình thức cụ thể như sau:
(1) Đối với cá nhân kinh doanh bất động sản quy mô nhỏ:
- Không thuộc trường hợp phải lập dự án đầu tư theo quy định của pháp luật về xây dựng, nhà ở
- Không thuộc trường hợp có giá trị quá 300 tỷ đồng trên một hợp đồng và có số lần giao dịch quá 10 lần trong một năm. Trường hợp giao dịch 01 lần trong một năm thì không tính giá trị.
(2) Đối với tổ chức, cá nhân bán nhà ở, công trình xây dựng, phần diện tích sàn xây dựng trong công trình xây dựng không nhằm mục đích kinh doanh hoặc bán, cho thuê, cho thuê mua nhà ở, công trình xây dựng, phần diện tích sàn xây dựng trong công trình xây dựng dưới mức quy mô nhỏ:
- Cá nhân không thuộc trường hợp phải lập dự án đầu tư theo quy định của pháp luật về xây dựng, pháp luật về nhà ở
- Tổ chức không thuộc trường hợp có giá trị quá 300 tỷ đồng trên một hợp đồng và có số lần giao dịch quá 10 lần trong một năm. Trường hợp giao dịch 01 lần trong một năm thì không tính giá trị.