Dự án đầu tư công đặc biệt có phải quyết định chủ trương đầu tư không?
Nội dung chính
Dự án đầu tư công đặc biệt có phải quyết định chủ trương đầu tư không?
Căn cứ khoản 6 Điều 19 Luật Đầu tư công 2024 được bổ sung bởi khoản 6 Điều 7 Luật sửa đổi Luật Đấu thầu; Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư; Luật Hải quan; Luật Thuế giá trị gia tăng; Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu; Luật Đầu tư; Luật Đầu tư công; Luật Quản lý, sử dụng tài sản công 2025 quy định về các nhiệm vụ, dự án không phải quyết định chủ trương đầu tư như sau:
(1) Dự án đầu tư công khẩn cấp;
(2) Dự án đầu tư công đặc biệt;
(3) Dự án đầu tư xây dựng đường sắt địa phương, dự án đường sắt địa phương theo mô hình phát triển đô thị theo định hướng phát triển giao thông công cộng (TOD) nằm trong quy hoạch đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt;
(4) Dự án thuộc chương trình mục tiêu quốc gia;
(5) Dự án thành phần thuộc dự án đã được cấp có thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư;
(6) Dự án đầu tư sử dụng vốn ODA không hoàn lại, dự án hỗ trợ kỹ thuật sử dụng vốn ODA không hoàn lại để chuẩn bị dự án đầu tư.
Như vậy, dự án đầu tư công đặc biệt không phải quyết định chủ trương đầu tư.
Dự án đầu tư công đặc biệt có phải quyết định chủ trương đầu tư không? (Hình từ Internet)
Trình tự, thủ tục quyết định đầu tư đối với dự án đầu tư công đặc biệt được quy định như nào?
Căn cứ theo Điều 45a Luật Đầu tư công 2024 được bổ sung bởi khoản 21 Điều 7 Luật sửa đổi Luật Đấu thầu; Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư; Luật Hải quan; Luật Thuế giá trị gia tăng; Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu; Luật Đầu tư; Luật Đầu tư công; Luật Quản lý, sử dụng tài sản công 2025 quy định trình tự, thủ tục quyết định đầu tư đối với dự án đầu tư công đặc biệt như sau:
(1) Căn cứ chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng, Đảng ủy Chính phủ, người đứng đầu Bộ, cơ quan trung ương, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tổ chức lập, thẩm định báo cáo nghiên cứu khả thi, báo cáo kinh tế - kỹ thuật và quyết định đầu tư dự án đầu tư công đặc biệt thuộc cấp mình quản lý.
(2) Chủ đầu tư dự án được tự quyết định toàn bộ công việc trong hoạt động đầu tư để tổ chức thực hiện dự án bảo đảm tiến độ, chất lượng và được áp dụng biện pháp quy định tại các điểm a, b và c khoản này khi cần thiết, chịu trách nhiệm về quyết định của mình:
- Áp dụng hình thức chỉ định thầu đối với các gói thầu của dự án;
- Thực hiện dự án theo phương thức vừa thiết kế, vừa thi công và được áp dụng trình tự, thủ tục rút gọn theo quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước, đấu thầu, xây dựng, quy hoạch đô thị, bảo vệ môi trường, khoáng sản và pháp luật khác có liên quan;
- Áp dụng định mức chi phí riêng để lập, thẩm định, phê duyệt dự toán dự án. Chính phủ giao Bộ, cơ quan trung ương ban hành các định mức chi phí riêng cho dự án.
Thủ tục lựa chọn nhà đầu tư với dự án PPP không thuộc trường hợp phải quyết định chủ trương đầu tư
Căn cứ khoản 2 Điều 58 Nghị định 243/2025/NĐ-CP quy định trình tự lựa chọn nhà đầu tư với dự án PPP không thuộc trường hợp phải quyết định chủ trương đầu tư như sau:
Thủ tục lựa chọn nhà đầu tư với dự án PPP không thuộc trường hợp phải quyết định chủ trương đầu tư
(1) Trong quá trình lập báo cáo nghiên cứu khả thi, báo cáo kinh tế - kỹ thuật đầu tư xây dựng, đơn vị chuẩn bị dự án hoặc nhà đầu tư đề xuất dự án đề xuất áp dụng hình thức lựa chọn nhà đầu tư trong trường hợp đặc biệt theo quy định tại Điều 57 Nghị định 243/2025/NĐ-CP và đề xuất nhà đầu tư thực hiện dự án (nếu có) kèm theo dự thảo hợp đồng;
(2) Cơ quan có thẩm quyền giao đơn vị thẩm định dự án PPP xem xét, đánh giá năng lực tài chính và điều kiện thực hiện dự án của nhà đầu tư theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 58 Nghị định 243/2025/NĐ-CP trong quá trình tổ chức thẩm định báo cáo nghiên cứu khả thi hoặc báo cáo kinh tế - kỹ thuật đầu tư xây dựng;
(3) Cơ quan có thẩm quyền phê duyệt dự án đồng thời phê duyệt nhà đầu tư được lựa chọn trong trường hợp đặc biệt và dự thảo hợp đồng.