Bài thơ về tiểu đội xe không kính là tác phẩm của ai?
Nội dung chính
Bài thơ về tiểu đội xe không kính là tác phẩm của ai?
Bài thơ về tiểu đội xe không kính là tác phẩm nổi tiếng của nhà thơ Phạm Tiến Duật, được sáng tác trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Đây là một trong những bài thơ tiêu biểu của văn học cách mạng, phản ánh chân thực cuộc sống và tinh thần chiến đấu kiên cường của những người lính lái xe Trường Sơn.
Bài thơ về tiểu đội xe không kính khắc họa hình ảnh những chiếc xe bị bom đạn Mỹ làm vỡ kính, nhưng những người lính vẫn hiên ngang vượt qua mưa bom, bão đạn mà không hề nao núng. Họ lái xe trong điều kiện thiếu thốn, khó khăn nhưng vẫn giữ tinh thần lạc quan, yêu đời, đoàn kết và quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ. Những câu thơ mang âm hưởng khỏe khoắn, giọng điệu ngang tàng đã làm nổi bật vẻ đẹp của người lính thời kỳ kháng chiến.
Không chỉ là một tác phẩm thơ ca, Bài thơ về tiểu đội xe không kính còn là biểu tượng cho lòng dũng cảm và chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Bài thơ để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc và trở thành một phần quan trọng trong nền văn học Việt Nam thời chống Mỹ.
Bài thơ về tiểu đội xe không kính là tác phẩm của ai? (Hình từ Internet)
Bài thơ có được bảo hộ quyền tác giả được quy định như nào?
Căn cứ tại khoản 5 Điều 1 Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi 2009 quy định về các loại hình tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả, bao gồm:
Các loại hình tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả
1. Tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học được bảo hộ bao gồm:
a) Tác phẩm văn học, khoa học, sách giáo khoa, giáo trình và tác phẩm khác được thể hiện dưới dạng chữ viết hoặc ký tự khác;
b) Bài giảng, bài phát biểu và bài nói khác;
c) Tác phẩm báo chí;
d) Tác phẩm âm nhạc;
đ) Tác phẩm sân khấu;
e) Tác phẩm điện ảnh và tác phẩm được tạo ra theo phương pháp tương tự (sau đây gọi chung là tác phẩm điện ảnh);
g) Tác phẩm tạo hình, mỹ thuật ứng dụng;
h) Tác phẩm nhiếp ảnh;
i) Tác phẩm kiến trúc;
k) Bản họa đồ, sơ đồ, bản đồ, bản vẽ liên quan đến địa hình, kiến trúc, công trình khoa học;
l) Tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian;
m) Chương trình máy tính, sưu tập dữ liệu.
2. Tác phẩm phái sinh chỉ được bảo hộ theo quy định tại khoản 1 Điều này nếu không gây phương hại đến quyền tác giả đối với tác phẩm được dùng để làm tác phẩm phái sinh.
3. Tác phẩm được bảo hộ quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này phải do tác giả trực tiếp sáng tạo bằng lao động trí tuệ của mình mà không sao chép từ tác phẩm của người khác.
Đồng thời, căn cứ tại Điều 23 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 quy định quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian như sau:
Quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian
1. Tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian là sáng tạo tập thể trên nền tảng truyền thống của một nhóm hoặc các cá nhân nhằm phản ánh khát vọng của cộng đồng, thể hiện tương xứng đặc điểm văn hoá và xã hội của họ, các tiêu chuẩn và giá trị được lưu truyền bằng cách mô phỏng hoặc bằng cách khác. Tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian bao gồm:
a) Truyện, thơ, câu đố;
b) Điệu hát, làn điệu âm nhạc;
c) Điệu múa, vở diễn, nghi lễ và các trò chơi;
d) Sản phẩm nghệ thuật đồ hoạ, hội hoạ, điêu khắc, nhạc cụ, hình mẫu kiến trúc và các loại hình nghệ thuật khác được thể hiện dưới bất kỳ hình thức vật chất nào.
2. Tổ chức, cá nhân khi sử dụng tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian phải dẫn chiếu xuất xứ của loại hình tác phẩm đó và bảo đảm giữ gìn giá trị đích thực của tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian.
Như vậy, thơ thuộc đối tượng được bảo hộ quyền tác giả theo quy định nêu trên.