08:24 - 09/11/2024

Xác định nghĩa vụ thuế đối với thu nhập từ chuyển nhượng tài sản theo Hiệp định tránh đánh thuế hai lần được quy định như thế nào?

Việc xác định nghĩa vụ thuế đối với thu nhập từ chuyển nhượng tài sản theo Hiệp định tránh đánh thuế hai lần được thực hiện như thế nào?

Nội dung chính

    Xác định nghĩa vụ thuế đối với thu nhập từ chuyển nhượng tài sản theo Hiệp định tránh đánh thuế hai lần được quy định như thế nào?

    Theo quy định tại Điều 27 Thông tư 205/2013/TT-BTC hướng dẫn thực hiện Hiệp định tránh đánh thuế hai lần và ngăn ngừa việc trốn lậu thuế đối với loại thuế đánh vào thu nhập và tài sản giữa Việt Nam với các nước và vùng lãnh thổ có hiệu lực thi hành tại Việt Nam do Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành thì:

    1. Nghĩa vụ thuế đối với thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản tại Việt Nam

    Theo quy định tại Hiệp định, Việt Nam có quyền thu thuế thu nhập theo quy định của pháp luật hiện hành về thuế ở Việt Nam đối với thu nhập từ việc chuyển nhượng bất động sản tại Việt Nam của một đối tượng cư trú của Nước ký kết Hiệp định với Việt Nam.

    Ví dụ 41: Hãng khai thác dầu mỏ của Pháp chuyển nhượng quyền khai thác dầu mỏ tại một địa điểm trên vùng biển Việt Nam, thu nhập nhận được sẽ phải nộp thuế thu nhập theo quy định tại pháp luật của Việt Nam.

    2. Nghĩa vụ thuế đối với thu nhập từ chuyển nhượng động sản là tài sản kinh doanh của một cơ sở thường trú tại Việt Nam

    Theo quy định tại Hiệp định, Việt Nam có quyền thu thuế thu nhập theo quy định của pháp luật hiện hành về thuế ở Việt Nam đối với thu nhập từ việc chuyển nhượng tài sản kinh doanh của cơ sở thường trú hoặc chuyển nhượng cơ sở thường trú tại Việt Nam của một đối tượng cư trú của Nước ký kết Hiệp định với Việt Nam.

    Ví dụ 42: Chi nhánh ngân hàng C của nước P (là nước đã ký Hiệp định với Việt Nam) hoạt động tại Hà Nội. Năm 2010, chi nhánh ngừng hoạt động và bán toàn bộ thiết bị và tài sản đã sử dụng cho mục đích kinh doanh của chi nhánh. Thu nhập thu được từ việc chuyển nhượng trên sẽ phải kê khai nộp thuế (sau khi trừ đi giá trị còn lại của thiết bị và tài sản) theo thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp hiện hành tại Việt Nam (25%).

    3. Nghĩa vụ thuế đối với thu nhập từ chuyển nhượng tàu thuỷ, thuyền, máy bay hoạt động trong vận tải quốc tế

    Theo quy định tại Hiệp định, thu nhập từ chuyển nhượng tàu thuỷ, thuyền, máy bay hoạt động trong vận tải quốc tế (theo định nghĩa tại Điều 12. Định nghĩa vận tải quốc tế của Thông tư này) do doanh nghiệp vận tải quốc tế của Nước ký kết Hiệp định với Việt Nam điều hành không phải nộp thuế tại Việt Nam.

    4. Nghĩa vụ thuế đối với thu nhập từ chuyển nhượng vốn của các nhà đầu tư nước ngoài trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, trong một tín thác hoặc một hợp danh mà giá trị bất động sản chiếm tỷ lệ chủ yếu trong tổng số vốn của doanh nghiệp

    Trong phần lớn các Hiệp định giữa Việt Nam với các nước đều có quy định theo đó, Việt Nam có quyền thu thuế thu nhập trong trường hợp bên nước ngoài chuyển nhượng vốn trong các doanh nghiệp, các tín thác hoặc các hợp danh là đối tượng cư trú của Việt Nam mà giá trị bất động sản chiếm tỷ lệ chủ yếu trong tổng số tài sản của doanh nghiệp.

    Tỷ lệ giá trị bất động sản trong tổng số tài sản của doanh nghiệp là số bình quân đơn giản của các tỷ lệ giá trị bất động sản trong tổng số tài sản của doanh nghiệp tại thời điểm chuyển nhượng tài sản, thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc năm tính thuế ngay trước năm trong đó tài sản được chuyển nhượng. Việc xác định giá trị bất động sản được căn cứ vào bảng tổng kết tài sản đã được kiểm toán của doanh nghiệp tại các thời điểm nêu trên.

    Tỷ lệ chủ yếu của giá trị bất động sản trong tổng số tài sản của doanh nghiệp được xác định như sau:

    - Trường hợp tại Hiệp định có quy định cụ thể về tỷ lệ hoặc về tỷ lệ chủ yếu thì theo tỷ lệ quy định tại Hiệp định, như tại Khoản 4, Điều 13, Hiệp định giữa Việt Nam và Tây Ban Nha quy định tỷ lệ là trên 50%, hoặc tại Khoản 4, Điều 14, Hiệp định giữa Việt Nam và Ô-man và tại Khoản 4, Điều 13, Hiệp định giữa Việt Nam và Các tiểu Vương quốc A-rập Thống nhất quy định tỷ lệ chủ yếu là trên 50%.

    - Trường hợp tại Hiệp định không quy định cụ thể về tỷ lệ hoặc về tỷ lệ chủ yếu thì tính chủ yếu được xác định là trên 50%.

    Ví dụ 43: Vào ngày 30/3/2012, một nhà đầu tư là đối tượng cư trú In-đô-nê-xi-a chuyển nhượng phần vốn của mình trong một doanh nghiệp V tại Việt Nam. Tỷ lệ giá trị bất động sản trong tổng số tài sản của doanh nghiệp V tại các thời điểm ngày 30/3/2012, ngày 01/01/2011 và ngày 31/12/2011 lần lượt là 60%, 40% và 53%. Việc xác định tỷ lệ chủ yếu của giá trị bất động sản trong tổng số tài sản của doanh nghiệp V cho mục đích xác định nghĩa vụ thuế của nhà đầu tư In-đô-nê-xi-a như sau:

    Khoản 4, Điều 13: Lợi tức từ chuyển nhượng tài sản, Hiệp định giữa Việt Nam và In-đô-nê-xi-a quy định:

    “4. Lợi tức do một đối tượng cư trú của một Nước ký kết thu được từ việc chuyển nhượng cổ phần hay các quyền lợi tương ứng tại một công ty có tài sản bao gồm toàn bộ hay chủ yếu là bất động sản nằm tại Nước ký kết kia có thể bị đánh thuế tại Nước kia.”

    Quy định trên không quy định tỷ lệ cụ thể của giá trị bất động sản trong tài sản của công ty nên tỷ lệ trên 50% sẽ được coi là chủ yếu.

    Số bình quân đơn giản của các tỷ lệ giá trị bất động sản trong tổng số tài sản của doanh nghiệp được xác định như sau:

    (60% + 40% + 53%) / 3 = 51%.

    Như vậy, trong ví dụ này, giá trị bất động sản đã chiếm chủ yếu trong số tài sản của Công ty V.

    5. Nghĩa vụ thuế đối với thu nhập từ chuyển nhượng cổ phần trong một công ty tại Việt Nam

    Tại một số Hiệp định quy định thu nhập từ chuyển nhượng cổ phần của một đối tượng cư trú của Nước ký kết Hiệp định với Việt Nam trong một công ty là đối tượng cư trú của Việt Nam phải chịu thuế tại Việt Nam.

    Ví dụ 44: Khoản 5, Điều 13: Lợi tức từ chuyển nhượng tài sản, Hiệp định giữa Việt Nam và In-đô-nê-xi-a quy định:

    “Lợi tức từ việc chuyển nhượng cổ phần tại một công ty là đối tượng cư trú của một Nước ký kết không phải là cổ phần được đề cập tại khoản 4 có thể bị đánh thuế tại Nước đó.”

    Theo quy định trên, nếu một đối tượng cư trú của In-đô-nê-xi-a có thu nhập từ chuyển nhượng cổ phần trong một công ty là đối tượng cư trú của Việt Nam thì thu nhập đó sẽ chịu thuế tại Việt Nam.

    6. Nghĩa vụ thuế đối với thu nhập từ chuyển nhượng tài sản khác tại Việt Nam

    Theo quy định tại Hiệp định, thu nhập từ chuyển nhượng các loại tài sản khác với các loại tài sản nêu tại Khoản 1 đến Khoản 5 nêu trên tại Việt Nam của một đối tượng cư trú của Nước ký kết Hiệp định với Việt Nam không phải nộp thuế thu nhập tại Việt Nam.

    Ví dụ 45: Một công ty xây dựng của Trung Quốc đưa máy móc sang Việt Nam thi công một công trình xây dựng trong vòng 3 tháng. Sau thời gian thi công, công ty này về nước và bán lại số máy móc nêu trên tại Việt Nam. Theo quy định của Hiệp định giữa Việt Nam và Trung Quốc, công ty này không có cơ sở thường trú tại Việt Nam (Khoản 3.a, Điều 5: Cơ sở thường trú), do đó không phải nộp thuế tại Việt Nam (Khoản 6, Điều 13: Lợi tức từ chuyển nhượng tài sản).

    Các quy định về thuế đối với thu nhập từ chuyển nhượng tài sản như trên được nêu tại Điều khoản Thu nhập từ chuyển nhượng tài sản (thường là Điều 13) của Hiệp định.

    Trên đây là nội dung quy định về việc xác định nghĩa vụ thuế đối với thu nhập từ chuyển nhượng tài sản theo Hiệp định tránh đánh thuế hai lần. Để hiểu rõ hơn về vấn đề này, bạn nên tham khảo thêm tại Thông tư 205/2013/TT-BTC.

    Trân trọng!

    4