Mẫu bài văn nghị luận về việc sử dụng mạng xã hội của giới trẻ hiện nay lớp 12? Kỷ luật học sinh lớp 12 sử dụng điện thoại trong giờ thế nào?
Nội dung chính
Mẫu bài văn nghị luận về việc sử dụng mạng xã hội của giới trẻ hiện nay lớp 12?
Dưới đây là mẫu bài văn nghị luận về việc sử dụng mạng xã hội của giới trẻ hiện nay mà các em học sinh có thể tham khảo:
Nghị luận về việc sử dụng mạng xã hội của giới trẻ hiện nay Ngày nay, mạng xã hội đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống, đặc biệt là đối với giới trẻ. Việc sử dụng mạng xã hội không chỉ là nhu cầu giải trí mà còn là phương tiện để học hỏi, kết nối và chia sẻ thông tin. Tuy nhiên, cùng với những lợi ích mà mạng xã hội mang lại, việc sử dụng nó cũng kéo theo nhiều hệ lụy tiêu cực, ảnh hưởng sâu rộng đến đời sống và tư duy của giới trẻ. Vậy nên, chúng ta cần có cái nhìn đúng đắn và cân nhắc về vấn đề này. Trước hết, mạng xã hội là một công cụ giúp giới trẻ tiếp cận thông tin một cách nhanh chóng và dễ dàng. Các nền tảng như Facebook, Instagram, TikTok, Twitter,… đã tạo ra không gian để chia sẻ và lan truyền thông tin một cách toàn cầu chỉ trong vài giây. Nhờ đó, giới trẻ có thể nắm bắt những sự kiện nổi bật, xu hướng mới và kiến thức đa dạng trên nhiều lĩnh vực. Ví dụ, trong thời gian dịch bệnh Covid-19 bùng phát, mạng xã hội đã trở thành kênh truyền tải thông tin hữu ích về tình hình dịch bệnh, các biện pháp phòng tránh và cách thức tự bảo vệ sức khỏe. Qua đó, mạng xã hội đã góp phần không nhỏ vào việc nâng cao nhận thức của giới trẻ về các vấn đề xã hội, giúp họ hiểu biết hơn về thế giới xung quanh. Thứ hai, mạng xã hội còn tạo ra cơ hội để giới trẻ kết nối, xây dựng mối quan hệ và thể hiện bản thân. Với tính năng nhắn tin, gọi điện miễn phí, mạng xã hội đã giúp mọi người có thể giữ liên lạc dù ở bất kỳ đâu. Những người có cùng sở thích, đam mê dễ dàng tìm thấy nhau, từ đó tạo ra các cộng đồng hỗ trợ và trao đổi lẫn nhau. Nhiều bạn trẻ cũng chọn mạng xã hội như một phương tiện để thể hiện cá tính, tài năng thông qua hình ảnh, video hay bài viết. Điều này không chỉ giúp họ xây dựng sự tự tin mà còn mở ra cơ hội trong công việc, học tập. Chẳng hạn, nhiều người trẻ nổi tiếng trên mạng xã hội đã có cơ hội được mời hợp tác với các nhãn hàng hoặc các tổ chức lớn nhờ vào khả năng truyền tải nội dung sáng tạo của họ. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích trên, việc sử dụng mạng xã hội cũng đặt ra nhiều vấn đề đáng lo ngại. Một trong những vấn đề nổi cộm nhất là tình trạng “nghiện” mạng xã hội. Theo nhiều nghiên cứu, một phần không nhỏ giới trẻ hiện nay dành quá nhiều thời gian trên mạng xã hội, dẫn đến việc bỏ bê học tập và công việc. Họ bị cuốn vào việc lướt mạng không có mục đích, dần trở nên phụ thuộc vào các "like", "share" và những lời bình luận ảo. Tình trạng này làm suy giảm khả năng tập trung và ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe tinh thần, gây ra cảm giác trống rỗng và cô đơn khi không sử dụng mạng xã hội. Ngoài ra, mạng xã hội còn là nơi dễ phát sinh những vấn đề về tâm lý và cảm xúc của giới trẻ. Những hình ảnh, video về cuộc sống hào nhoáng, những khoảnh khắc hoàn hảo của người khác trên mạng xã hội có thể khiến nhiều bạn trẻ cảm thấy tự ti về bản thân. Họ so sánh, ganh tị và áp lực bởi những tiêu chuẩn ảo trên mạng, điều này ảnh hưởng nghiêm trọng đến lòng tự tôn và dẫn đến các vấn đề về sức khỏe tâm lý như trầm cảm, lo âu. Một số trường hợp đáng buồn đã xảy ra khi một số bạn trẻ chọn cách giải quyết áp lực này bằng các hành động tiêu cực, gây đau lòng cho gia đình và cộng đồng. Bên cạnh đó, mạng xã hội cũng là môi trường dễ dàng dẫn đến việc lan truyền thông tin sai lệch. Nhiều bạn trẻ, do chưa có khả năng phân biệt đúng sai, đã dễ dàng tin tưởng và chia sẻ những thông tin thiếu kiểm chứng. Việc này gây nên sự hiểu lầm và bất ổn trong xã hội, có thể dẫn đến những hậu quả khó lường. Chẳng hạn, trong thời kỳ dịch bệnh, không ít tin đồn thất thiệt đã được lan truyền, khiến người dân hoang mang và gây ảnh hưởng tiêu cực đến nỗ lực kiểm soát dịch của các cơ quan chức năng. Từ những phân tích trên, chúng ta có thể thấy rằng việc sử dụng mạng xã hội của giới trẻ hiện nay mang lại cả mặt tích cực và tiêu cực. Để hạn chế những tác động xấu và phát huy lợi ích của mạng xã hội, mỗi cá nhân cần rèn luyện cho mình ý thức sử dụng mạng xã hội một cách lành mạnh và có trách nhiệm. Thay vì lạm dụng và đắm chìm vào thế giới ảo, giới trẻ cần biết cách kiểm soát thời gian sử dụng mạng xã hội và sử dụng nó như một công cụ để học hỏi, phát triển bản thân. Ngoài ra, gia đình và nhà trường cũng đóng vai trò quan trọng trong việc giáo dục và hướng dẫn cách sử dụng mạng xã hội cho giới trẻ. Các bậc phụ huynh nên dành thời gian quan tâm, lắng nghe và chia sẻ cùng con em mình, giúp họ hiểu rõ hơn về tác động của mạng xã hội và có cách sử dụng hợp lý. Nhà trường cũng cần tăng cường giáo dục kỹ năng sống, giúp học sinh rèn luyện khả năng phân biệt thông tin đúng sai và kiểm soát cảm xúc khi sử dụng mạng xã hội. Tóm lại, mạng xã hội là một con dao hai lưỡi. Nếu biết cách sử dụng hợp lý, nó sẽ là công cụ hữu ích giúp giới trẻ phát triển toàn diện. Ngược lại, nếu lạm dụng và thiếu ý thức, nó sẽ trở thành mối nguy hại đối với sự phát triển của mỗi người và cả xã hội. Vì vậy, việc sử dụng mạng xã hội cần có sự kiểm soát và giáo dục từ bản thân, gia đình và nhà trường, để mạng xã hội thực sự trở thành một môi trường lành mạnh, hỗ trợ tích cực cho cuộc sống của chúng ta. |
Lưu ý: mẫu bài văn nghị luận về việc sử dụng mạng xã hội của giới trẻ hiện nay chỉ mang tính tham khảo
Mẫu bài văn nghị luận về việc sử dụng mạng xã hội của giới trẻ hiện nay lớp 12? Kỷ luật học sinh lớp 12 sử dụng điện thoại trong giờ thế nào? (Hình từ Internet)
Học sinh lớp 12 sử dụng điện thoại trong giờ học bị xử lý kỷ luật như thế nào?
Theo quy định tại khoản 4 Điều 37 Điều lệ trường trung học cơ sở, trường trung học phổ thông và trường phổ thông có nhiều cấp học ban hành kèm theo Thông tư 32/2020/TT-BGDĐT quy định về các hành vi học sinh không được làm như sau:
Các hành vi học sinh không được làm
...
4. Sử dụng điện thoại di động, các thiết bị khác khi đang học tập trên lớp không phục vụ cho việc học tập và không được giáo viên cho phép.
...
Bên cạnh đó, khoản 2 Điều 38 Điều lệ trường trung học cơ sở, trường trung học phổ thông và trường phổ thông có nhiều cấp học ban hành kèm theo Thông tư 32/2020/TT-BGDĐT quy định về việc xử lý kỷ luật như sau:
Khen thưởng và kỷ luật
...
2. Học sinh vi phạm khuyết điểm trong quá trình học tập, rèn luyện được giáo dục hoặc xử lý kỷ luật theo các hình thức sau đây:
a) Nhắc nhở, hỗ trợ, giúp đỡ trực tiếp để học sinh khắc phục khuyết điểm.
b) Khiển trách, thông báo với cha mẹ học sinh nhằm phối hợp giúp đỡ học sinh khắc phục khuyết điểm.
c) Tạm dừng học ở trường có thời hạn và thực hiện các biện pháp giáo dục khác theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Từ những quy định trên, có thể thấy học sinh không được sử dụng điện thoại trong giờ học nếu việc sử dụng không nhằm phục vụ cho việc học tập và không được giáo viên cho phép. Với hành vi xử dụng điện thoại trong giờ học, tùy vào từng trường hợp và mức độ vi phạm mà học sinh lớp 12 có thể bị xử lý kỷ luật theo các hình thức sau đây:
- Nhắc nhở, hỗ trợ, giúp đỡ trực tiếp để học sinh khắc phục khuyết điểm.
- Khiển trách, thông báo với cha mẹ học sinh nhằm phối hợp giúp đỡ học sinh khắc phục khuyết điểm.
- Tạm dừng học ở trường có thời hạn và thực hiện các biện pháp giáo dục khác theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Lớp 12 có tối đa bao nhiêu học sinh?
Theo quy định tại khoản 3 Điều 16 Điều lệ trường trung học cơ sở, trường trung học phổ thông và trường phổ thông có nhiều cấp học ban hành kèm theo Thông tư 32/2020/TT-BGDĐT về số học sinh trong mỗi lớp học như sau:
Lớp học
...
3. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định cụ thể số học sinh trong mỗi lớp học theo hướng giảm sĩ số học sinh trên lớp; bảo đảm mỗi lớp học ở các cấp trung học cơ sở và trung học phổ thông có không quá 45 học sinh.
4. Số học sinh trong mỗi lớp học của trường chuyên biệt được quy định trong quy chế tổ chức và hoạt động của trường chuyên biệt.
Như vậy, mỗi lớp học của lớp 12 có tối đa 45 học sinh, số lượng học sinh cụ thể do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định.
Ngoài ra, đối với trường chuyên biệt thì số học sinh trong mỗi lớp học của trường chuyên biệt được quy định trong quy chế tổ chức và hoạt động của trường chuyên biệt.