Thứ 2, Ngày 28/10/2024

Văn bản 3978/BKHĐT-TH năm 2014 về Khung hướng dẫn xây dựng Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2015 do Bộ Kế hoạch và Đầu tư ban hành

Số hiệu 3978/BKHĐT-TH
Ngày ban hành 24/06/2014
Ngày có hiệu lực 24/06/2014
Loại văn bản Văn bản khác
Cơ quan ban hành Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Người ký Bùi Quang Vinh
Lĩnh vực Bộ máy hành chính,Văn hóa - Xã hội

BỘ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 3978/BKHĐT-TH

Hà Nội, ngày 24 tháng 06 năm 2014

 

KHUNG HƯỚNG DẪN XÂY DỰNG KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 2015

Thực hiện Chỉ thị số 14/CT-TTg ngày 14 tháng 6 năm 2014 của Thủ tướng Chính phủ về xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2015, Bộ Kế hoạch và Đầu tư gửi đến quý cơ quan Khung hướng dẫn xây dựng Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2015.

Phần thứ nhất

TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI 6 THÁNG ĐẦU NĂM 2014 VÀ KHẢ NĂNG THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT CỦA QUỐC HỘI VỀ KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 2014

Căn cứ các Nghị quyết của Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, dự toán ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách trung ương năm 2014, Thủ tướng Chính phủ đã ra các quyết định giao chỉ tiêu kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, dự toán ngân sách nhà nước và kế hoạch vốn đầu tư nguồn ngân sách nhà nước (bao gồm các chương trình mục tiêu quốc gia), vốn trái phiếu Chính phủ năm 2014[1].

Đồng thời với việc giao kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 02/01/2014 về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu chỉ đạo, điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2014.

Dưới đây là đánh giá về tình hình kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm, dự báo khả năng thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2014 và một số giải pháp chủ yếu cần tập trung thực hiện trong 6 tháng cuối năm:

I. VỀ TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI 6 THÁNG ĐẦU NĂM 2014

Trong 6 tháng đầu năm 2014, dưới sự chỉ đạo tập trung, quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, sự nỗ lực của các cấp, các ngành, các doanh nghiệp và toàn dân trong việc triển khai thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ và giải pháp đã đề ra trong Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 02/01/2014 và Nghị quyết các phiên họp thường kỳ của Chính phủ, tình hình kinh tế - xã hội trong 6 tháng đầu năm 2014 tiếp tục đà phục hồi, có nhiều chuyển biến và đạt được những kết quả tích cực. Tăng trưởng của hầu hết các ngành, lĩnh vực trong nền kinh tế đều có cải thiện, đã tạo điều kiện đưa tăng trưởng GDP 6 tháng đầu năm lên 5,04-5,25%. Sản xuất công nghiệp, nhất là công nghiệp chế biến, chế tạo chuyển biến tích cực. Sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản tiếp tục phát triển tương đối ổn định. Lĩnh vực dịch vụ phát triển khá và đóng góp lớn nhất vào tăng trưởng GDP. Xuất khẩu tiếp tục duy trì đà tăng trưởng. Lạm phát tiếp tục được kiểm soát ở mức thấp, giá cả, thị trường khá ổn định, cung - cầu hàng hóa được đảm bảo; thu ngân sách nhà nước đạt khá so với dự toán. Lãi suất huy động và cho vay tiếp tục được điều chỉnh giảm, cơ cấu tín dụng có chuyển biến. Tỷ giá, thị trường ngoại tệ ổn định, dự trữ ngoại tệ tăng cao. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đăng ký và thực hiện tăng; tiến độ giải ngân vốn ODA đạt khá. Tiến trình tái cơ cấu đầu tư đạt kết quả bước đầu tích cực. An sinh xã hội được đảm bảo, các chính sách đối với người có công, người nghèo, người dân tộc thiểu số được quan tâm. Chính trị, xã hội ổn định. Công tác cải cách hành chính, giải quyết khiếu nại, tố cáo và đấu tranh phòng chống tham nhũng được chú trọng; công tác đối ngoại được đẩy mạnh.

Tuy nhiên, tình hình kinh tế - xã hội vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức, chứa đựng nhiều rủi ro: kinh tế vĩ mô chưa thực sự ổn định vững chắc. Tổng cầu vẫn còn yếu. Tốc độ tăng trưởng tín dụng chậm; khả năng tiếp cận vốn tín dụng của các doanh nghiệp còn khó khăn; xử lý nợ xấu còn chậm so với yêu cầu; việc làm, thu nhập và đời sống của một bộ phận dân cư còn gặp khó khăn; một số dịch bệnh ở trẻ em diễn ra trên diện rộng; các tệ nạn xã hội, tội phạm ở một số nơi còn diễn biến phức tạp. Việc Trung Quốc đưa giàn khoan HD-981 trái phép vào trong thềm lục địa của Việt Nam trên biển Đông và một số hành động gây rối, vi phạm pháp luật, manh động, phá hoại cơ sở sản xuất, trong đó có cơ sở sản xuất của nhà đầu tư nước ngoài đã ảnh hưởng xấu đến sản xuất kinh doanh và môi trường đầu tư của nước ta.

Dưới đây là tình hình cụ thể về phát triển kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm 2014:

1. Về thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế:

Nhờ việc triển khai thực hiện tốt các giải pháp, chính sách hỗ trợ và thúc đẩy sản xuất, kinh doanh trong Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 02 tháng 1 năm 2014 của Chính phủ và các Nghị quyết các phiên họp thường kỳ của Chính phủ, tình hình kinh tế có nhiều chuyển biến và đạt được những kết quả tích cực.

a) Về tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước:

Trong 6 tháng đầu năm 2014, mặc dù có ảnh hưởng của tình hình bất ổn trên biển Đông và một số hành động gây rối, phá hoại tài sản của doanh nghiệp, nhưng nhìn chung tình hình chung của nền kinh tế, cũng như trong các ngành, sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tiếp tục phục hồi và phát triển khá ổn định. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) quý I/2014 tăng 5,09%, quý II/2014 tăng 5,25%.

Tính chung 6 tháng đầu năm 2014, GDP ước tăng 5,18% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,96%; công nghiệp và xây dựng tăng 5,33%; dịch vụ tăng 6,01%.

b) Về sản xuất công nghiệp:

Ước 6 tháng đầu năm 2014, chỉ số phát triển công nghiệp IIP tăng 5,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: khai khoáng giảm 2,5%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 7,8%; sản xuất, phân phối điện, khí đốt tăng 10,9%; cung cấp nước, xử lý rác thải, nước thải tăng 5,9%. Sản xuất công nghiệp có chiều hướng cải thiện dần trong 6 tháng đầu năm 2014: 3 tháng đầu năm tăng 5,2%; 4 tháng tăng 5,4%; 5 tháng tăng 5,6%; ước 6 tháng tăng 5,8%.

Ngành công nghiệp đã đáp ứng cơ bản tư liệu sản xuất, sản phẩm tiêu dùng trong nước, duy trì thị trường trong nước tương đối ổn định. Các sản phẩm chủ yếu thỏa mãn nhu cầu sản xuất và tiêu dùng trong nước như xi măng, thép xây dựng thông thường, thép cán nguội, phân lân, than đá, quần áo may sẵn, da giày, gạch ốp lát, đồ điện gia dụng.... Ngành điện đã khắc phục được tình trạng thiếu điện đảm bảo cung ứng đủ điện cho nhu cầu sản xuất, sinh hoạt và còn có dự phòng khá cao.

Tuy nhiên, hoạt động đầu tư kinh doanh trong các ngành công nghiệp phụ trợ chưa phát triển, chưa thu hút được nhiều sự quan tâm của các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Một số ngành vẫn có tỷ lệ gia công cao như da giày, dệt may, dây và cáp điện, điện tử... Nguyên liệu gia công trong ngành còn phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu.

c) Về sản xuất nông nghiệp:

Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản đã vượt qua nhiều khó khăn do thời tiết khắc nghiệt trong những tháng đầu năm ở miền Bắc và dịch bệnh, bảo đảm sản xuất phát triển ổn định. Giá trị sản xuất toàn ngành ước 6 tháng đạt 357.443 tỷ đồng, tăng 3,43% so với cùng kỳ năm trước, đạt mức tăng trưởng cao nhất so với cùng kỳ các năm gần đây (năm 2013 tăng 2,53%; năm 2012 tăng 2,81%; năm 2011: 2,08%), trong đó: nông nghiệp tăng 2,52%, lâm nghiệp tăng 5,87% và thủy sản tăng 6,02%.

Các địa phương phía Nam cơ bản đã thu hoạch xong lúa Đông xuân và xuống giống các loại cây trồng vụ Hè thu. Vụ Đông xuân cả nước gieo cấy được 3116,3 nghìn ha lúa, tăng 0,3% so với năm trước. Sơ bộ năng suất ước đạt 66,9 tạ/ha, tăng 2,4 tạ/ha; sản lượng ước đạt 20,8 triệu tấn, tăng 812,2 nghìn tấn. Vùng Đồng bằng sông Cửu Long năm nay được mùa lúa, sản lượng đạt 11,2 triệu tấn, tăng 546 nghìn tấn (tương đương 5,1%) so vụ Đông xuân 2013. Sản lượng lúa tăng do điều kiện thời tiết thuận lợi, sâu bệnh gây hại ít, không bị lũ lụt, phù sa bồi đầu vụ, cuối vụ ít bị hạn hán và không bị xâm nhập mặn nhiều như những năm trước. Giá lúa đang ở mức khá so với năm trước.

Tổng diện tích gieo trồng cây lâu năm 6 tháng đầu năm biến động không nhiều so với cùng kỳ năm trước nhưng cơ cấu các loại cây trồng có sự biến động để phù hợp với điều kiện canh tác của mỗi vùng miền và đem lại hiệu quả kinh tế. Cây công nghiệp lâu năm tiếp tục phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Hiện nay do hồ tiêu đang được giá và là loại cây dễ trồng xen canh nên có xu hướng phát triển mạnh; sản lượng ước đạt 116,7 nghìn tấn, tăng 7% so với cùng kỳ năm trước. Cây cao su sản xuất ổn định nhưng thị trường tiêu thụ chậm giá thấp, sản lượng thu hoạch chỉ đạt 312,8 nghìn tấn tăng 1,2% so với cùng kỳ năm trước. Cây chè búp phát triển tương đối ổn định, sản lượng 6 tháng tăng 5% so với cùng kỳ năm trước.

Sản lượng một số cây ăn quả chủ yếu trong 6 tháng đầu năm cũng đạt khá, trong đó sản lượng cam ước tính đạt 278,39 nghìn tấn tăng 5,1% so với cùng kỳ năm trước; chuối đạt 1,01 triệu tấn, tăng 4,1%; đặc biệt sản lượng nho đạt 11,7 nghìn tấn tăng 10,7% so với cùng kỳ năm trước. Một số cây ăn quả khác như dứa, bưởi có sản lượng giảm là do lúc ra hoa kết trái gặp thời tiết không thuận lợi, và một số diện tích gieo trồng đang được cải tạo để chuyển đổi cơ cấu cây trồng cho phù hợp điều kiện canh tác và đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn.

Chăn nuôi cũng có dấu hiệu phục hồi, dịch bệnh được kiểm soát, tình trạng nhập lậu sản phẩm chăn nuôi, đặc biệt là gà thải loại đã giảm mạnh, giá sản phẩm chăn nuôi trong nước dần được tăng lên mức hợp lý, người chăn nuôi có lãi. Theo kết quả điều tra sơ bộ tại thời điểm 1/4/2014 cả nước có 26,39 triệu con lợn, bằng 100,3% so với cùng kỳ năm 2013. Hiện tại chăn nuôi lợn có nhiều thuận lợi do giá lợn hơi tăng và dịch bệnh được khống chế, người chăn nuôi đang tích cực đầu tư tái đàn.

Trong 6 tháng đầu năm 2014, do điều kiện thời tiết khô hạn tại nhiều địa phương trong cả nước làm ảnh hưởng đến sản xuất lâm nghiệp, tuy nhiên năm nay cũng có thuận lợi do các tỉnh miền bắc có mưa sớm nên đã triển khai công tác trồng rừng bảo đảm thời vụ. Tình hình khai thác lâm sản cũng khả quan, các loại lâm sản chủ yếu khai thác đều tăng khá so cùng kỳ năm 2013. Diện tích rừng trồng mới tập trung ước tính đạt 71,4 nghìn ha, tăng 4,8% so với cùng kỳ năm trước; trong đó chủ yếu là diện tích rừng sản xuất (trên 90%). Sản lượng gỗ khai thác trong sáu tháng đầu năm đạt 2.616 nghìn m3, tăng 8,5% so với cùng kỳ năm trước. Giá trị xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ 5 tháng đầu năm tăng 14,2% so cùng kỳ năm 2013.

Tính chung 6 tháng đầu năm, tổng sản lượng thủy sản là 2.866,5 nghìn tấn. Sản lượng thủy sản nuôi trồng ước đạt 1453 nghìn tấn, tăng 3,4%; Sản lượng khai thác ước đạt 1413,5 nghìn tấn, tăng 5,5% so cùng kỳ, trong đó khai thác biển ước đạt 1328,7 nghìn tấn, tăng 5,6%. Tuy nhiên, ngành khai thác hiện đang bị ảnh hưởng lớn, do những hành động gây hấn của Trung Quốc tại biển Đông.

[...]