Thông Tư Liên tịch 12/2001/TTLT-BTP-VKSTC hướng dẫn thi hành án do Bộ Tư pháp - Viện Kiểm sát nhân dân tối cao ban hành

Số hiệu 12/2001/TTLT-BTP-VKSNDTC
Ngày ban hành 26/02/2001
Ngày có hiệu lực 13/03/2001
Loại văn bản Thông tư liên tịch
Cơ quan ban hành Bộ Tư pháp,Viện kiểm sát nhân dân tối cao
Người ký Nguyễn Văn Sản,Trần Thu
Lĩnh vực Thủ tục Tố tụng

BỘ TƯ PHÁP-VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO
********

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 12/2001/TTLT-BTP-VKSNDTC

Hà Nội , ngày 26 tháng 2 năm 2001

 

THÔNG TƯ LIÊN TỊCH

CỦA BỘ TƯ PHÁP - VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 12/2001/TTLT-BTP-VKSTC NGÀY 26 THÁNG 2 NĂM 2001 HƯỚNG DẪN THỰC HIỆN MỘT SỐ QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ 

Để áp dụng một số quy định pháp luật về thi hành án dân sự; đáp ứng yêu cầu của thực tiễn công tác thi hành án dân sự, Bộ Tư pháp - Viện Kiểm sát nhân dân tối cao thống nhất hướng dẫn một số quy định pháp luật về thi hành án dân sự như sau:

I. CÁCH XÁC ĐỊNH "VIỆC" THI HÀNH ÁN:

1. Để thống nhất cách lập hồ sơ, thống kê thi hành án, nay quy định mỗi quyết định thi hành án được coi là một "việc" thi hành án.

Đối với bản án, quyết định có hiệu lực thi hành của Toà án (sau đây gọi chung là bản án, quyết định), Thủ trưởng cơ quan thi hành án có thể ra một hoặc nhiều quyết định thi hành án, cụ thể là:

a. Đối với những bản án, quyết định có nhiều khoản, trong đó có một hoặc nhiều khoản thuộc diện chủ động và một hoặc nhiều khoản thuộc diện thi hành theo đơn yêu cầu, thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án ra một quyết định thi hành án chung cho tất cả các khoản thuộc diện chủ động thi hành án, còn đối với các khoản thi hành theo đơn yêu cầu, thì tuỳ từng trường hợp, căn cứ vào số lượng đơn yêu cầu thi hành án, Thủ trưởng cơ quan thi hành án có thể ra một hoặc nhiều quyết định thi hành án.

b. Đối với bản án, quyết định theo đó có nhiều người có quyền, nghĩa vụ liên đới, thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án ra một quyết định thi hành án chung cho những người có quyền, nghĩa vụ liên đới,

2. Những trường hợp sau được xác định là việc chưa có điều kiện thi hành án:

a. Người phải thi hành án không có tài sản, thu nhập hợp pháp để thi hành án;

b. Người phải thi hành có tài sản nhưng có giá trị nhỏ không đáng kể để thi hành án;

c. Người phải thi hành án chỉ có tài sản đã bị kê biên, phát mại nhưng không bán được, mà người được thi hành án không đồng ý nhận để thi hành án và người phải thi hành án không còn tài sản có giá trị nào khác;

d. Người phải thi hành án có tài sản nhưng tài sản thuộc diện không được kê biên hoặc chưa được xử lý theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp tài sản thuộc diện chưa được xử lý (như: di sản thừa kế chưa chia, tài sản thuộc sở hữu chung, tài sản đang có sự tranh chấp về quyền sở hữu...) mà cơ quan thi hành án đã hướng dẫn cho người được thi hành án, người có quyền lợi liên quan khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết nhưng đương sự chưa khởi kiện hoặc chưa có quyết định của Toà án về việc xử lý tài sản đó.

đ. Người phải thi hành nghĩa vụ trả đất nhưng trên đất có bất động sản được xây dựng hợp lệ trước khi có bản án, quyết định của Toà án mà trong bản án, quyết định đó không đề cập đến việc xử lý bất động sản, khiến cơ quan thi hành án không thể thực hiện việc giao đất đúng theo nội dung bản án, quyết định của Toà án. Trong trường hợp này, cơ quan thi hành án phải có văn bản kiến nghị Viện Kiểm sát nhân dân, Toà án nhân dân có thẩm quyền thực hiện việc kháng nghị để khắc phục những thiếu sót trong bản án, quyết định của Toà án.

e. Người phải thi hành nghĩa vụ giao vật đặc định mà vật đó đã bị mất, hư hỏng mà hai bên không thoả thuận được về phương thức thanh toán, cơ quan thi hành án đã hướng dẫn các đương sự khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết việc bồi thường, nhưng chưa có quyết định giải quyết của Toà án.

g. Bản án, quyết định của Toà án tuyên không rõ, có sai sót về số liệu hoặc có sai lầm nên không thể thi hành được, cơ quan thi hành án đã có văn bản kiến nghị Viện Kiểm sát nhân dân, Toà án nhân dân có thẩm quyền giải thích hoặc thực hiện việc kháng nghị để khắc phục những thiếu sót trong bản án, quyết định của Toà án nhưng chưa có kết quả.

h. Việc thi hành nghĩa vụ gắn liền với nhân thân, nếu do điều kiện khách quan (ốm đau, đi công ở nước ngoài từ 1 năm trở lên...) mà người phải thi hành án không thể tự mình thực hiện được các nghĩa vụ đó hoặc chưa xác định được địa chỉ của người phải thi hành án;

i. Các trường hợp khác do nguyên nhân khách quan mà cơ quan thi hành án không thể thi hành được.

Để xác định bản án, quyết định của Toà án là chưa có điều kiện thi hành, trong thời hạn 2 tháng, kể từ ngày ra quyết định thi hành án, cơ quan thi hành án phải trực tiếp xác minh điều kiện thi hành án của người phải thi hành án. Việc xác minh phải lập văn bản, có xác nhận của chính quyền địa phương, cơ quan, tổ chức nơi người phải thi hành án cư trú, công tác hoặc có tài sản.

Khi xác định được một việc là chưa có điều kiện thi hành án, thì tuỳ từng trường hợp mà cơ quan thi hành án ra các quyết định phù hợp: hoãn, tạm đình chỉ, trả lại đơn yêu cầu thi hành án. Trường hợp chủ động thi hành án thì cơ quan thi hành án phải lập sổ theo dõi riêng và ít nhất mỗi quý có một lần xác minh điều kiện thi hành án của đương sự.

II. THỜI HIỆU THI HÀNH ÁN DÂN SỰ:

Khi áp dụng quy định về thời hiệu thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án cần lưu ý một số điểm sau:

1. Thời hiệu thi hành án dân sự được tính từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật. Trường hợp bản án, quyết định có phần bị kháng cáo, kháng nghị mà việc xét kháng cáo, kháng nghị của Toà án không ảnh hưởng đến các phần khác, thì thời hiệu thi hành đối với các phần không bị kháng cáo, kháng nghị vẫn được tính từ ngày bản án, quyết định đó có hiệu lực pháp luật.

Đối với bản án, quyết định tuy chưa có hiệu lực pháp luật nhưng được thi hành ngay, thì cơ quan thi hành án có quyền ra quyết định thi hành án, người được thi hành án có quyền làm đơn yêu cầu trong thời gian án chưa có hiệu lực pháp luật, nhưng thời hiệu thi hành án vẫn tính từ ngày bản án, quyết định đó có hiệu lực pháp luật.

2. Trường hợp bản án, quyết định quy định cụ thể thời điểm người phải thi hành án thực hiện nghĩa vụ, thì thời hiệu thi hành án được tính từ ngày nghĩa vụ đến hạn thực hiện. Đối với bản án, quyết định được thi hành theo định kỳ, thì thời hiệu thi hành án được tính cho từng kỳ hạn.

3. Thời hiệu thi hành bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật trước ngày 1.1.1990 (ngày Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1989 có hiệu lực) được thực hiện như sau:

- Nếu chưa được thi hành thì thời hiệu thi hành án được tính từ ngày 1/1/1990.

- Nếu trước 1/1/1990, bản án, quyết định đã được đưa ra thi hành nhưng chưa được thi hành hoặc được thi hành một phần, thì cơ quan thi hành án phải tiếp tục tổ chức thi hành;

[...]