Thông tư 45/TC-CĐKT năm 1994 quy định chế độ quản lý tài chính đối với doanh nghiệp bảo hiểm do Bộ Tài chính ban hành

Số hiệu 45/TC-CĐKT
Ngày ban hành 30/05/1994
Ngày có hiệu lực 01/01/1994
Loại văn bản Thông tư
Cơ quan ban hành Bộ Tài chính
Người ký Nguyễn Sinh Hùng
Lĩnh vực Doanh nghiệp,Thuế - Phí - Lệ Phí,Bảo hiểm,Kế toán - Kiểm toán

BỘ TÀI CHÍNH
********

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 45/TC-CĐKT

Hà Nội, ngày 30 tháng 5 năm 1994

 

THÔNG TƯ

CỦA BỘ TÀI CHÍNH SỐ 45/TC-CĐKT NGÀY 30 THÁNG 5 NĂM 1994 QUY ĐỊNH CHẾ ĐỘ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP BẢO HIỂM

Thi hành Nghị định số 15/CP ngày 2/3/1993 của Chính phủ "Về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm quản lý Nhà nước của các Bộ, cơ quan ngang Bộ", Nghị định số 155/HĐBT ngày 15/1/1988 của Hội đồng Bộ trưởng "Quy định chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy của Bộ Tài chính", các Luật thuế doanh thu, thuế lợi tức được Quốc hội thông qua ngày 30/6/1990, các Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế doanh thu, thuế lợi tức được Quốc hội thông qua ngày 05/7/1993. Nghị định số 55/CP, số 57/CP ngày 28/8/1993 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành các Luật thuế và các Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các Luật thuế;
Căn cứ Pháp lệnh kế toán, thống kê do Hội đồng Nhà nước ban hành ngày 10/5/1988 và Nghị định số 25/HĐBT ngày 18/3/1989 của Hội đồng Bộ trưởng ban hành Điều lệ tổ chức kế toán Nhà nước;
Căn cứ Nghị định của Chính phủ số 100/CP ngày 18/12/1993 về kinh doanh bảo hiểm;
Bộ Tài chính quy định chế độ quản lý tài chính đối với doanh nghiệp bảo hiểm như sau:

I. QUY ĐỊNH CHUNG

1. Doanh nghiệp bảo hiểm thuộc đối tượng thực hiện Thông tư này được hiểu theo quy định tại Điều 2 Nghị định số 100/CP về kinh doanh bảo hiểm và bao gồm:

- Doanh nghiệp nhà nước bảo hiểm,

- Công ty cổ phần bảo hiểm,

- Công ty bảo hiểm tương hỗ,

- Công ty liên doanh bảo hiểm,

- Chi nhánh của tổ chức bảo hiểm nước ngoài,

- Công ty bảo hiểm 100% vốn nước ngoài.

Riêng đối với tổ chức môi giới bảo hiểm sẽ áp dụng chế độ quản lý tài chính hiện hành như các công ty dịch vụ khác.

2. Doanh nghiệp bảo hiểm là đơn vị hạch toán kinh tế, tự chủ về tài chính, chịu trách nhiệm vật chất về kết quả kinh doanh, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước Việt Nam theo luật định.

3. Doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh bảo hiểm phải thực hiện các chế độ tài chính do Nhà nước quy định chung cho các doanh nghiệp nhà nước khác như chế độ bảo toàn và phát triển vốn, chế độ xây dựng kế hoạch, báo cáo thực hiện kế hoạch và quyết toán tài chính doanh nghiệp... và các quy định tại Thông tư này.

II. VỐN, KÝ QUỸ VÀ KHẢ NĂNG THANH TOÁN

1. Vốn

1.1. Mức vốn pháp định áp dụng đối với doanh nghiệp bảo hiểm được quy định tại Điều 22 Nghị định về kinh doanh bảo hiểm. Doanh nghiệp bảo hiểm có thể quy định mức vốn điều lệ của mình cao hơn mức vốn pháp định và bổ sung thêm trong quá trình hoạt động.

1.2. Doanh nghiệp bảo hiểm có trách nhiệm bảo toàn và phát triển vốn. Việc bảo toàn và phát triển vốn của doanh nghiệp nhà nước kinh doanh bảo hiểm thực hiện theo quy định chung cho các doanh nghiệp nhà nước.

2. Ký quỹ

2.1. Doanh nghiệp bảo hiểm phải thực hiện ký quỹ và được hưởng lãi trên số tiền ký quỹ như quy định tại Điều 9 Nghị định số 100/CP về kinh doanh bảo hiểm. Mức ký quỹ quy định tại Thông tư của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Nghị định số 100/CP về kinh doanh bảo hiểm.

2.2. Trường hợp khả năng thanh toán bị thiếu hụt, doanh nghiệp bảo hiểm được sử dụng tiền ký quỹ để đáp ứng yêu cầu thanh toán phát sinh. Trong vòng 90 ngày kể từ khi sử dụng tiền ký quỹ, doanh nghiệp bảo hiểm phải bổ sung phần thiếu hụt số tiền ký quỹ so với quy định và báo cáo Bộ Tài chính.

2.3. Doanh nghiệp bảo hiểm được rút toàn bộ tiền ký quỹ khi chấm dứt hoạt động.

2.4. Doanh nghiệp bảo hiểm sau khi nộp tiền ký quỹ báo cáo Bộ Tài chính. Mọi trường hợp sử dụng tiền ký quỹ phải được Bộ Tài chính chấp thuận bằng văn bản.

3. Khả năng thanh toán

3.1. Doanh nghiệp bảo hiểm phải luôn duy trì khả năng thanh toán trong suốt quá trình hoạt động của mình.

3.2.

a. Một doanh nghiệp bảo hiểm được coi là đủ khả năng thanh toán khi tổng các nguồn vốn sau đây lớn hơn hoặc bằng mức đảm bảo khả năng thanh toán.

- Vốn điều lệ đã đóng.

[...]