Thông tư 40-LTTP/LTNT-1970 hướng dẫn Nghị quyết 84-CP-1970 về chính sách ổn định nghĩa vụ lương thực trong 5 năm (1970-1974) do Bộ Lương thực và thực phẩm ban hành

Số hiệu 40-LTTP/LTNT
Ngày ban hành 30/05/1970
Ngày có hiệu lực 14/06/1970
Loại văn bản Thông tư
Cơ quan ban hành Bộ Lương thực
Người ký Ngô Minh Loan
Lĩnh vực Lĩnh vực khác

BỘ LƯƠNG THỰC
******

VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 40-LTTP/LTNT

Hà Nội, ngày 30 tháng 05 năm 1970 

 

THÔNG TƯ

HƯỚNG DẪN THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT CỦA HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ SỐ 84-CP NGÀY 24-4-1970 VỀ CHÍNH SÁCH ỔN ĐỊNH NGHĨA VỤ LƯƠNG THỰC TRONG 5 NĂM (1970-1974)

BỘ TRƯỞNG BỘ LƯƠNG THỰC VÀ THỰC PHẨM

Hội đồng Chính phủ đã ra Nghị quyết số 84-CP ngày 24-4-1970 về chính sách ổn định nghĩa vụ lương thực và phân phối lương thực trong hợp tác xã nông nghiệp.

Nghị quyết đã nhận định tình hình thực hiện chính sách lương thực trong những năm qua và đã đề ra phương hướng nhiệm vụ giải quyết vấn đề lương thực trong những năm tới. Nghị quyết đã vạch ra những quan điểm cơ bản, những chính sách biện pháp cụ thể nhằm mục đích đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp phát triển toàn diện, đề cao tự lực cánh sinh giải quyết vấn đề lương thực, khuyến khích mọi người hăng hái tham gia lao động, tăng cường quản lý của Nhà nước trong việc phân phối lương thực toàn xã hội, củng cố mối quan hệ giữa Nhà nước với nông dân trên cơ sở công bằng hợp lý, củng cố khối công nông liên minh. Mục đích lớn nhất, có tính chất bao trùm nhất là bằng mọi cách phục vụ và thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển, trọng tâm là sản xuất lương thực và thực phẩm. Nội dung chính sách ổn định nghĩa vụ lương thực và phân phối lương thực trong nội bộ hợp tác xã nông nghiệp đã thể hiện tinh thần nói trên. Những biện pháp chỉ đạo cụ thể đều phải nhằm thực hiện yêu cầu sản xuất phát triển, trên cơ sở đó, việc lưu thông phân phối lương thực mới có điều kiện làm tốt hơn, mới phục vụ tốt cho chiến đấu, sản xuất và đời sống của nhân dân, mới góp phần đắc lực vào công cuộc chống Mỹ cứu nước của toàn dân và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.

Thực hiện chính sách ổn định nghĩa vụ lương thực kỳ này tuy có một số khó khăn trước mắt như sau mấy vụ mùa màng bị thất bát, cán bộ xã viên, nông dân lo ngại việc thực hiện mức nghĩa vụ trong các năm đầu. cán bộ nhất là cán bộ xã lo lắng, làm sao lãnh đạo sản xuất nông nghiệp tốt lại phải tham gia lao động tích cực, sửa đổi được tác phong chỉ đạo cũ, xã viên lo lắng phấn đấu để có lề lối mới trong cách làm ăn. Nhưng có thuận lợi cơ bản là chính sách rất phù hợp với nguyện vọng đông đảo xã viên, nông dân, Trung ương Đảng và Chính phủ rất quan tâm lãnh đạo sản xuất nông nghiệp, coi đây là một nhiệm vụ trung tâm của lãnh đạo sản xuất và phát triển nền kinh tế quốc dân. Nhà nước đã và đang tăng cường thủy lợi, giống, thiết bị, kỹ thuật và các loại vật tư  khác cho sản xuất nông nghiệp. Nhờ sự giúp đỡ to lớn của Nhà nước cộng với tinh thần lao động cần cù của xã viên, nông dân, sản xuất lương thực sẽ có nhiều điều kiện phát triển vững chắc.

I. CHÍNH SÁCH ỔN ĐỊNH NGHĨA VỤ LƯƠNG THỰC

Từ năm 1970 trở đi, Nhà nước ổn định mức định nghĩa vụ lương thực (bằng thóc, ngô) dưới hình thức thu thuế nông nghiệp và thu mua cho hợp tác xã nông nghiệp và hộ nông dân cá thể. Phí thủy lợi và các khoản lệ phí khác từ nay sẽ thu bằng tiền. Mức nghĩa vụ này được ổn định trong 5 năm từ 1970 đến 1974. Mức ổn định nghĩa vụ giao số lượng tuyệt đối cho cả năm có định mức tạm thu trong vụ chiêm, giữa hai vụ trong một năm có thể cho phép bù trừ để bảo đảm cho nông dân có được mức lương thực còn lại cần thiết và để bảo đảm thực hiện được mức nghĩa vụ ổn định cả năm. Trong thời gian đó, mức nghĩa vụ đã ổn định không thay đổi, trừ trường hợp được Nhà nước xét điều chỉnh hoặc giảm. Năm nào cũng như năm nào, hợp tác xã và nông dân cũng chỉ phải làm một mức nhất định, mức đã được Nhà nước giao. Gặp vụ được mùa, Nhà nước cũng không giao thêm mức nghĩa vụ; nếu mùa màng bị sút kém, hợp tác xã và nông dân cần tiết kiệm tiêu dùng để hoàn thành nghĩa vụ đối với Nhà nước. Sau khi hợp tác xã và nông dân đã hoàn thành nghĩa vụ lương thực, các hộ xã viên, nông dân có toàn quyền sử dựng số lương thực thừa của mình để phát triển chăn nuôi, để dự trữ, hoặc để bán ngoài nghĩa vụ cho Nhà nước hay bán cho những hộ thiếu lương thực.

1. Định mức ổn định nghĩa vụ lương thực cho hợp tác xã nông nghiệp và hộ nông dân cá thể

Việc định mức ổn định nghĩa vụ lương thực cho hợp tác xã và hộ nông dân có ý nghĩa rất quan trọng. Làm tốt vấn đề này sẽ khuyến khích hợp tác xã nông dân phấn  khởi đẩy mạnh sản xuất. Muốn vậy, trước hết là phải làm tốt công tác tư tưởng, động viên chính trị cán bộ, xã viên, nông dân; làm cho họ thông suốt chính sách của Đảng và Chính phủ, và thấy rõ một mặt Nhà nước tạo điều kiện mọi mặt giúp hợp tác xã đẩy mạnh sản xuất phát triển, mặt khác Nhà nước lại ổn định mức đóng góp lương thực của hợp tác xã trong suốt 5 năm. Từ đó, làm cho cán bộ, xã viên thấy con đường đi lên của nền sản xuất nông nghiệp ở miền Bắc nước ta, thế đi lên của các hợp tác xã nông nghiệp, mà tin tưởng phấn khởi, hăng hái, ra sức sản xuất, không những hoàn thành tốt mức ổn định nghĩa vụ lương thực Nhà nước đã giao mà còn nâng cao từng bước đời sống của mình. Khi định mức ổn định nghĩa vụ, việc xem xét các số liệu lịch sử, vận dụng các căn cứ là cần thiết, nhưng đồng thời phải cùng với cán bộ, xã viên tính toán, bàn bạc đề ra kế hoạch sản xuất, các chỉ tiêu sản xuất, những biện pháp thực hiện của hợp tác xã, để xã viên tin tưởng, phấn khởi phát triển sản xuất, không nên chỉ chú trọng đến việc tính toán nghiệp vụ đơn thuần.

a) Vận dụng các căn cứ để tính toán mức ổn định nghĩa vụ lương thực (đối với thóc, ngô) và phương pháp giao mức cho hợp tác xã nông nghiệp và hộ nông dân cá thể.

Về căn cứ để tính toán mức ổn định thóc và ngô (khoai sắn sẽ nói ở phần sau) cho các hợp tác xã và nông dân cá thể kỳ này, nghị quyết của Hội đồng Chính phủ đã quy định là:

Dựa vào kết quả huy động bình quân 3 năm (năm cao nhất, năm bình thường, năm sút kém) tính trong những năm từ 1963 đến 1969, đồng thời dựa vào tình hình thực tế sản xuất và đời sống hiện nay, nhìn khả năng mấy năm tới và tham khảo mức ổn định nghĩa vụ mà Nhà nước đã giao năm 1963.

Khi tính căn cứ giao mức, cần xem xét kết quả thực tế huy động (bao gồm thuế nông nghiệp phí thủy lợi, mua trong nghĩa vụ, mua  ngoài nghĩa vụ) của từng hợp tác xã để tính toán mức bình quân. Nếu kết quả huy động của mỗi hợp tác xã một khác thì không thể lấy đồng loạt 3 năm nhất định tính chung cho các hợp tác xã trong huyện, vì có thể năm 1965 là năm huy động cao nhất, 1964 là năm huy động bình thường, 1969 là năm huy động sút kém của hợp tác xã A, nhưng năm huy động cao nhất, năm bình thường, năm sút kém của hợp tác xã B lại là những năm khác. Để tính mức bình quân 3 năm được hợp lý cần xem xét kết quả huy động từ 1963 đến 1969, xếp sắp thứ tự từ năm huy động cao nhất đến năm huy động thấp nhất, năm cao nhất xếp thứ nhất, năm kết quả huy động thấp nhất xếp thứ bảy, chọn năm kết quả huy động cao nhất, năm bình thường nên lấy năm huy động thứ ba, nếu trường hợp dưới năm huy động cao nhất có 2 năm huy động bằng nhay thì có thể lấy 1 trong 2 năm đó là năm huy động bình thường, năm sút kém nên chọn năm thứ sáu, năm kể trên năm huy động thấp nhất, làm những năm tiêu biểu.

Khi xem xét kết quả huy động bình quân 3 năm tiêu biểu làm căn cứ, đồng thời phải xem xét tình hình sản xuất, đời sống hiện nay và triển vọng những năm tới để định mức ổn định nghĩa vụ. Nếu mức bình quân 3 năm phù hợp với tình hình sản xuất và đời sống hiện nay và những năm tới thì lấy kết quả 3 năm bình quân để định mức ổn định nghĩa vụ. Nếu sản xuất hiện nay và triển vọng mấy năm tới có điều kiện phát triển, mà giữ mức bình quân 3 năm, đời sống của xã viên cao hơn so với những hợp tác xã có kết quả sản xuất và huy động tương đương với hợp tác xã đó, thì cần điều chỉnh mức lên cho phù hợp. Ngược lại, nếu xem xét kết quả sản xuất hiện nay và triển vọng những năm tới mà dựa vào mức bình quân 3 năm tiêu biểu để định mức ổn định nghĩa vụ, mức ăn của xã viên nông dân quá thấp thì trước hết phải xem xét khả năng mọi mặt của hợp tác xã đó, tìm nguyên nhân sản xuất mấy năm gần đây sụt kém, đề ra phương hướng sản xuất những năm tới và bàn bạc kế hoạch thực hiện, nhằm đẩy sản xuất lương thực của hợp tác xã phát triển. Trong trường hợp này, tuy đời sống của xã viên nông dân trước  mắt có khó khăn, nhưng nay lại có sự giúp đỡ của Nhà nước cùng với sự cố gắng của xã viên, sản xuất có thể đẩy lên được thì cũng không cần điều chỉnh mức xuống, mà cần làm cho xã viên thấy rõ  khó khăn về lương thực của Nhà nước trong công cuộc chống Mỹ cứu nước hiện nay, đồng thời thấy rõ khả năng đã có của hợp tác xã, để xã viên tin tưởng, tự nguyện nhận mức, cố gắng vươn lên đẩy mạnh sản xuất, vừa bảo đảm hoàn thành nghĩa vụ lương thực đối với Nhà nước, vừa bảo đảm đời sống của xã viên mình.

Đối với một số ít hợp tác xã, mặc dù đã có sự giúp đỡ mọi mặt của huyện, khả năng chủ quan hợp tác xã cũng không thể đẩy sản xuất lên được, nếu dựa vào mức bình quân 3 năm tiêu biển định mức ổn định nghĩa vụ, không bảo đảm mức ăn tối thiểu cần thiết của xã viên, nông dân thì cần cân nhắc kỹ các mặt, điều chỉnh mức xuống đôi chút cho phù hợp với khả năng của hợp tác xã. Mức này phải có tách dụng thúc đẩy hợp tác xã cố gắng phát triển sản xuất.

Khi định mức ổn định nghĩa vụ cho hợp tác xã, cần chú ý những trường hợp sau đây:

- Đối với hợp tác xã vừa có nghĩa vụ lương thực vừa có sản phẩm cây công nghiệp bán cho Nhà nước, cần xem xét các mặt để giao mức ổn định nghĩa vụ lương thực cho hợp tác xã trên tinh thần vừa khuyến khích sản xuất lương thực vừa khuyến khích sản xuất cây công nghiệp.

- Đối với những hợp tác xã từ trước đến nay thiếu ăn chưa làm nghĩa vụ lương thực thì nay phải đề cao tinh thần tự lực cánh sinh, cố gắng đẩy mạnh sản xuất phát triển để không những đủ ăn mà còn vươn lên làm nghĩa vụ lương thực đối với Nhà nước. Khi đó, Nhà nước sẽ giao mức ổn định nghĩa vụ đến năm 1974.

- Riêng đối với khu vực Vĩnh-linh, tình hình sản xuất hiện nay chưa được ổn định, nên căn cứ vào tình hình sản xuất và đời sống của xã viên nông dân mà giao mức nghĩa vụ, từng vụ. Trong những năm tới, khi sản xuất được ổn định, có thể ổn định mức nghĩa vụ lương thực cho các hợp tác xã đến năm 1974.

- Đối với miền núi sẽ có thông tư hướng dẫn cụ thể của Bộ Lương thực và thực phẩm và Ủy ban Dân tộc.

b) Phương pháp giao mức ổn định nghĩa vụ lương thực cho hợp tác xã nông nghiệp và hộ nông dân cá thể

Với ý nghĩa quan trọng của việc giao mức ổn định nghĩa vụ lương thực cho hợp tác xã nông nghiệp và nông dân cá thể đã nói ở phần trên, nên phương pháp giao mức phải theo đường lối quần chúng, trên cơ sở quần chúng đã được giáo dục, thông suốt chính sách. Các tỉnh, thành cần bàn bạc dân chủ mức nghĩa vụ với huyện, huyện thực sự bàn bạc với cấp ủy xã, hợp tác xã, xã viên nông dân về mức ổn định, để trên dưới nhất trí. Trên cơ sở mỗi người thấy hết những yêu cầu và trách nhiệm của mình đối với công cuộc chống Mỹ, cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội, làm cho xã viên nông dân đồng tình phấn khởi sản xuất và hăng hái làm tròn nghĩa vụ đối với Nhà nước. Tránh những hiện tượng mệnh lệnh gò ép. Muốn việc giao mức được tốt, trước khi giao mức cho hợp tác xã, một mặt huyện cần tổ chức nắm tình hình một số hợp tác xã về diện tích, năng suất cây trồng, khả năng vật chất và lao động, đời sống của xã viên nông dân hiện nay và triển vọng những năm tới sắp tới để có tài liệu cụ thể và kinh nghiệm khi bàn bạc, trao đổi với ban quản trị hợp tác xã, mặt khác, cùng ban quản trị vạch ra kế hoạch sản xuất và phương án phân phối những năm tới, làm cho cán bộ, xã viên thấy được khả năng của mình mà tin tưởng, phấn khởi ra sức sản xuất.

Huyện dựa vào mức kiểm tra của tỉnh, vào các căn cứ đã đề ra và căn cứ đã đề ra và cân nhắc các mặt, giao mức kiểm tra cho từng hợp tác xã. Tuy mới là mức kiểm tra, cũng cần tính toán tương đối sát và bàn bạc trong tập thể huyện ủy, Ủy ban, với cấp xã (đối với hợp tác xã trong xã đó).

- Sau khi nhận mức kiểm tra của huyện, chi ủy, ban quản trị hợp tác xã cân nhắc, bàn bạc xác định mức cho hợp tác xã mình, dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy, Ủy ban hành chính xã. Khi đã cơ bản nhất trí trong lãnh đạo và với cấp trên, ban quản trị (có sự lãnh đạo của chi ủy) đưa ra bàn bạc với đội trưởng, đội phó sản xuất để việc định mức bảo đảm một bước vững chắc. Sau đó, sẽ đưa ra đại hội xã viên thảo luận, làm cho xã viên thấy rõ mọi khả năng phát triển sản xuất của hợp tác xã do chủ quan có cố gắng và sự giúp đỡ của Nhà nước, tham gia xây dựng mức ổn định nghĩa vụ của hợp tác xã mình, phát động quần chúng phấn khởi ra sức sản xuất. Trên cơ sở bàn bạc dân chủ tập thể với xã viên, ban quản trị lên nhận mức với huyện.

- Huyện cần căn cứ vào ý kiến của ban quản trị, của xã viên, xem xét tương quan hợp lý về mức nghĩa vụ của các hợp tác xã trong huyện, định mức cho từng hợp tác xã, rồi báo cáo lên tỉnh, thành xét duyệt.

Trong thời gian tổ chức học tập chính sách cho cán bộ, xã viên, bàn bạc dân chủ xây dựng mức, tỉnh, huyện cần phân công cấp ủy viên, cán bộ có năng lực xuống huớng dẫn giúp đỡ hợp tác xã, nhất là những hợp tác xã làm nhiều nghĩa vụ và sản xuất hiện nay có nhiều khó khăn và trực tiếp nghe ý kiến quần chúng để việc chỉ đạo giao mức được sát.

- Việc giao mức ổn định nghĩa vụ lương thực cho các hộ nông dân cá thể cần được chú ý. Giao mức cho những hộ này được đúng mức, không những tạo điều kiện cho Nhà nước nắm thêm lực lượng, giúp cho việc quản lý thị trường lương thực được chặt chẽ mà còn có tác dụng động viên họ hăng hái sản xuất. Năm 1963, nhiều nơi buông lỏng việc giao mức ổn định nghĩa vụ cho  các hộ nông dân cá thể và thiếu đấu tranh giáo dục họ nghiêm chỉnh thực hiện nên đã phần nào ảnh hưởng đến việc củng cố hợp tác xã và quản lý thị trường lương thực.

[...]
15
Quản lý: Công ty TNHH THƯ VIỆN NHÀ ĐẤT Giấy phép thiết lập trang thông tin điện tử tổng hợp trên mạng số ..., do ... cấp ngày ... (dự kiến) Mã số thuế: 0318679464 Địa chỉ trụ sở: Số 15 Đường 32, Khu Vạn Phúc, P. Hiệp Bình Phước, TP. Thủ Đức, TP. HCM, Việt Nam Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ