BỘ
LƯƠNG THỰC
******
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
40-LTTP/LTNT
|
Hà
Nội, ngày 30 tháng 05 năm 1970
|
THÔNG TƯ
HƯỚNG DẪN THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT CỦA HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ SỐ
84-CP NGÀY 24-4-1970 VỀ CHÍNH SÁCH ỔN ĐỊNH NGHĨA VỤ LƯƠNG
THỰC TRONG 5 NĂM (1970-1974)
BỘ TRƯỞNG BỘ LƯƠNG THỰC
VÀ THỰC PHẨM
Hội đồng Chính phủ đã ra Nghị
quyết số 84-CP ngày 24-4-1970 về chính sách ổn định nghĩa vụ lương thực và phân
phối lương thực trong hợp tác xã nông nghiệp.
Nghị quyết đã nhận định tình
hình thực hiện chính sách lương thực trong những năm qua và đã đề ra phương hướng
nhiệm vụ giải quyết vấn đề lương thực trong những năm tới. Nghị quyết đã vạch
ra những quan điểm cơ bản, những chính sách biện pháp cụ thể nhằm mục đích đẩy
mạnh sản xuất nông nghiệp phát triển toàn diện, đề cao tự lực cánh sinh giải
quyết vấn đề lương thực, khuyến khích mọi người hăng hái tham gia lao động,
tăng cường quản lý của Nhà nước trong việc phân phối lương thực toàn xã hội, củng
cố mối quan hệ giữa Nhà nước với nông dân trên cơ sở công bằng hợp lý, củng cố
khối công nông liên minh. Mục đích lớn nhất, có tính chất bao trùm nhất là bằng
mọi cách phục vụ và thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển, trọng tâm là sản
xuất lương thực và thực phẩm. Nội dung chính sách ổn định nghĩa vụ lương thực
và phân phối lương thực trong nội bộ hợp tác xã nông nghiệp đã thể hiện tinh thần
nói trên. Những biện pháp chỉ đạo cụ thể đều phải nhằm thực hiện yêu cầu sản xuất
phát triển, trên cơ sở đó, việc lưu thông phân phối lương thực mới có điều kiện
làm tốt hơn, mới phục vụ tốt cho chiến đấu, sản xuất và đời sống của nhân dân,
mới góp phần đắc lực vào công cuộc chống Mỹ cứu nước của toàn dân và xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
Thực hiện chính sách ổn định
nghĩa vụ lương thực kỳ này tuy có một số khó khăn trước mắt như sau mấy vụ mùa
màng bị thất bát, cán bộ xã viên, nông dân lo ngại việc thực hiện mức nghĩa vụ
trong các năm đầu. cán bộ nhất là cán bộ xã lo lắng, làm sao lãnh đạo sản xuất
nông nghiệp tốt lại phải tham gia lao động tích cực, sửa đổi được tác phong chỉ
đạo cũ, xã viên lo lắng phấn đấu để có lề lối mới trong cách làm ăn. Nhưng có
thuận lợi cơ bản là chính sách rất phù hợp với nguyện vọng đông đảo xã viên,
nông dân, Trung ương Đảng và Chính phủ rất quan tâm lãnh đạo sản xuất nông nghiệp,
coi đây là một nhiệm vụ trung tâm của lãnh đạo sản xuất và phát triển nền kinh
tế quốc dân. Nhà nước đã và đang tăng cường thủy lợi, giống, thiết bị, kỹ thuật
và các loại vật tư khác cho sản xuất nông nghiệp. Nhờ sự giúp đỡ to lớn của
Nhà nước cộng với tinh thần lao động cần cù của xã viên, nông dân, sản xuất lương
thực sẽ có nhiều điều kiện phát triển vững chắc.
I. CHÍNH SÁCH ỔN ĐỊNH NGHĨA VỤ
LƯƠNG THỰC
Từ năm 1970 trở đi, Nhà nước ổn
định mức định nghĩa vụ lương thực (bằng thóc, ngô) dưới hình thức thu thuế nông
nghiệp và thu mua cho hợp tác xã nông nghiệp và hộ nông dân cá thể. Phí thủy lợi
và các khoản lệ phí khác từ nay sẽ thu bằng tiền. Mức nghĩa vụ này được ổn định
trong 5 năm từ 1970 đến 1974. Mức ổn định nghĩa vụ giao số lượng tuyệt đối cho
cả năm có định mức tạm thu trong vụ chiêm, giữa hai vụ trong một năm có thể cho
phép bù trừ để bảo đảm cho nông dân có được mức lương thực còn lại cần thiết và
để bảo đảm thực hiện được mức nghĩa vụ ổn định cả năm. Trong thời gian đó, mức
nghĩa vụ đã ổn định không thay đổi, trừ trường hợp được Nhà nước xét điều chỉnh
hoặc giảm. Năm nào cũng như năm nào, hợp tác xã và nông dân cũng chỉ phải làm một
mức nhất định, mức đã được Nhà nước giao. Gặp vụ được mùa, Nhà nước cũng không
giao thêm mức nghĩa vụ; nếu mùa màng bị sút kém, hợp tác xã và nông dân cần tiết
kiệm tiêu dùng để hoàn thành nghĩa vụ đối với Nhà nước. Sau khi hợp tác xã và
nông dân đã hoàn thành nghĩa vụ lương thực, các hộ xã viên, nông dân có toàn
quyền sử dựng số lương thực thừa của mình để phát triển chăn nuôi, để dự trữ,
hoặc để bán ngoài nghĩa vụ cho Nhà nước hay bán cho những hộ thiếu lương thực.
1. Định mức ổn
định nghĩa vụ lương thực cho hợp tác xã nông nghiệp và hộ nông dân cá thể
Việc định mức ổn định nghĩa vụ
lương thực cho hợp tác xã và hộ nông dân có ý nghĩa rất quan trọng. Làm tốt vấn
đề này sẽ khuyến khích hợp tác xã nông dân phấn khởi đẩy mạnh sản xuất.
Muốn vậy, trước hết là phải làm tốt công tác tư tưởng, động viên chính trị cán
bộ, xã viên, nông dân; làm cho họ thông suốt chính sách của Đảng và Chính phủ,
và thấy rõ một mặt Nhà nước tạo điều kiện mọi mặt giúp hợp tác xã đẩy mạnh sản
xuất phát triển, mặt khác Nhà nước lại ổn định mức đóng góp lương thực của hợp
tác xã trong suốt 5 năm. Từ đó, làm cho cán bộ, xã viên thấy con đường đi lên của
nền sản xuất nông nghiệp ở miền Bắc nước ta, thế đi lên của các hợp tác xã nông
nghiệp, mà tin tưởng phấn khởi, hăng hái, ra sức sản xuất, không những hoàn
thành tốt mức ổn định nghĩa vụ lương thực Nhà nước đã giao mà còn nâng cao từng
bước đời sống của mình. Khi định mức ổn định nghĩa vụ, việc xem xét các số liệu
lịch sử, vận dụng các căn cứ là cần thiết, nhưng đồng thời phải cùng với cán bộ,
xã viên tính toán, bàn bạc đề ra kế hoạch sản xuất, các chỉ tiêu sản xuất, những
biện pháp thực hiện của hợp tác xã, để xã viên tin tưởng, phấn khởi phát triển
sản xuất, không nên chỉ chú trọng đến việc tính toán nghiệp vụ đơn thuần.
a) Vận dụng các căn cứ để
tính toán mức ổn định nghĩa vụ lương thực (đối với thóc, ngô) và phương pháp
giao mức cho hợp tác xã nông nghiệp và hộ nông dân cá thể.
Về căn cứ để tính toán mức ổn định
thóc và ngô (khoai sắn sẽ nói ở phần sau) cho các hợp tác xã và nông dân cá thể
kỳ này, nghị quyết của Hội đồng Chính phủ đã quy định là:
Dựa vào kết quả huy động bình
quân 3 năm (năm cao nhất, năm bình thường, năm sút kém) tính trong những năm từ
1963 đến 1969, đồng thời dựa vào tình hình thực tế sản xuất và đời sống hiện
nay, nhìn khả năng mấy năm tới và tham khảo mức ổn định nghĩa vụ mà Nhà nước đã
giao năm 1963.
Khi tính căn cứ giao mức, cần
xem xét kết quả thực tế huy động (bao gồm thuế nông nghiệp phí thủy lợi, mua
trong nghĩa vụ, mua ngoài nghĩa vụ) của từng hợp tác xã để tính toán mức
bình quân. Nếu kết quả huy động của mỗi hợp tác xã một khác thì không thể lấy đồng
loạt 3 năm nhất định tính chung cho các hợp tác xã trong huyện, vì có thể năm
1965 là năm huy động cao nhất, 1964 là năm huy động bình thường, 1969 là năm
huy động sút kém của hợp tác xã A, nhưng năm huy động cao nhất, năm bình
thường, năm sút kém của hợp tác xã B lại là những năm khác. Để tính mức bình
quân 3 năm được hợp lý cần xem xét kết quả huy động từ 1963 đến 1969, xếp sắp
thứ tự từ năm huy động cao nhất đến năm huy động thấp nhất, năm cao nhất xếp thứ
nhất, năm kết quả huy động thấp nhất xếp thứ bảy, chọn năm kết quả huy động
cao nhất, năm bình thường nên lấy năm huy động thứ ba, nếu trường hợp dưới năm
huy động cao nhất có 2 năm huy động bằng nhay thì có thể lấy 1 trong 2 năm đó
là năm huy động bình thường, năm sút kém nên chọn năm thứ sáu, năm kể trên năm
huy động thấp nhất, làm những năm tiêu biểu.
Khi xem xét kết quả huy động bình
quân 3 năm tiêu biểu làm căn cứ, đồng thời phải xem xét tình hình sản xuất, đời
sống hiện nay và triển vọng những năm tới để định mức ổn định nghĩa vụ. Nếu mức
bình quân 3 năm phù hợp với tình hình sản xuất và đời sống hiện nay và những
năm tới thì lấy kết quả 3 năm bình quân để định mức ổn định nghĩa vụ. Nếu sản
xuất hiện nay và triển vọng mấy năm tới có điều kiện phát triển, mà giữ mức
bình quân 3 năm, đời sống của xã viên cao hơn so với những hợp tác xã có kết quả
sản xuất và huy động tương đương với hợp tác xã đó, thì cần điều chỉnh mức lên
cho phù hợp. Ngược lại, nếu xem xét kết quả sản xuất hiện nay và triển vọng những
năm tới mà dựa vào mức bình quân 3 năm tiêu biểu để định mức ổn định nghĩa vụ,
mức ăn của xã viên nông dân quá thấp thì trước hết phải xem xét khả năng mọi mặt
của hợp tác xã đó, tìm nguyên nhân sản xuất mấy năm gần đây sụt kém, đề ra
phương hướng sản xuất những năm tới và bàn bạc kế hoạch thực hiện, nhằm đẩy sản
xuất lương thực của hợp tác xã phát triển. Trong trường hợp này, tuy đời sống của
xã viên nông dân trước mắt có khó khăn, nhưng nay lại có sự giúp đỡ của
Nhà nước cùng với sự cố gắng của xã viên, sản xuất có thể đẩy lên được thì cũng
không cần điều chỉnh mức xuống, mà cần làm cho xã viên thấy rõ khó khăn về
lương thực của Nhà nước trong công cuộc chống Mỹ cứu nước hiện nay, đồng thời
thấy rõ khả năng đã có của hợp tác xã, để xã viên tin tưởng, tự nguyện nhận mức,
cố gắng vươn lên đẩy mạnh sản xuất, vừa bảo đảm hoàn thành nghĩa vụ lương thực
đối với Nhà nước, vừa bảo đảm đời sống của xã viên mình.
Đối với một số ít hợp tác xã, mặc
dù đã có sự giúp đỡ mọi mặt của huyện, khả năng chủ quan hợp tác xã cũng không
thể đẩy sản xuất lên được, nếu dựa vào mức bình quân 3 năm tiêu biển định mức ổn
định nghĩa vụ, không bảo đảm mức ăn tối thiểu cần thiết của xã viên, nông dân
thì cần cân nhắc kỹ các mặt, điều chỉnh mức xuống đôi chút cho phù hợp với khả
năng của hợp tác xã. Mức này phải có tách dụng thúc đẩy hợp tác xã cố gắng phát
triển sản xuất.
Khi định mức ổn định nghĩa vụ
cho hợp tác xã, cần chú ý những trường hợp sau đây:
- Đối với hợp tác xã vừa có
nghĩa vụ lương thực vừa có sản phẩm cây công nghiệp bán cho Nhà nước, cần xem
xét các mặt để giao mức ổn định nghĩa vụ lương thực cho hợp tác xã trên tinh thần
vừa khuyến khích sản xuất lương thực vừa khuyến khích sản xuất cây công nghiệp.
- Đối với những hợp tác xã từ
trước đến nay thiếu ăn chưa làm nghĩa vụ lương thực thì nay phải đề cao tinh thần
tự lực cánh sinh, cố gắng đẩy mạnh sản xuất phát triển để không những đủ ăn mà
còn vươn lên làm nghĩa vụ lương thực đối với Nhà nước. Khi đó, Nhà nước sẽ giao
mức ổn định nghĩa vụ đến năm 1974.
- Riêng đối với khu vực
Vĩnh-linh, tình hình sản xuất hiện nay chưa được ổn định, nên căn cứ vào tình
hình sản xuất và đời sống của xã viên nông dân mà giao mức nghĩa vụ, từng vụ.
Trong những năm tới, khi sản xuất được ổn định, có thể ổn định mức nghĩa vụ
lương thực cho các hợp tác xã đến năm 1974.
- Đối với miền núi sẽ có thông
tư hướng dẫn cụ thể của Bộ Lương thực và thực phẩm và Ủy ban Dân tộc.
b) Phương pháp giao mức ổn định
nghĩa vụ lương thực cho hợp tác xã nông nghiệp và hộ nông dân cá thể
Với ý nghĩa quan trọng của việc
giao mức ổn định nghĩa vụ lương thực cho hợp tác xã nông nghiệp và nông dân cá
thể đã nói ở phần trên, nên phương pháp giao mức phải theo đường lối quần
chúng, trên cơ sở quần chúng đã được giáo dục, thông suốt chính sách. Các tỉnh,
thành cần bàn bạc dân chủ mức nghĩa vụ với huyện, huyện thực sự bàn bạc với cấp
ủy xã, hợp tác xã, xã viên nông dân về mức ổn định, để trên dưới nhất trí. Trên
cơ sở mỗi người thấy hết những yêu cầu và trách nhiệm của mình đối với công cuộc
chống Mỹ, cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội, làm cho xã viên nông dân đồng
tình phấn khởi sản xuất và hăng hái làm tròn nghĩa vụ đối với Nhà nước. Tránh
những hiện tượng mệnh lệnh gò ép. Muốn việc giao mức được tốt, trước khi giao mức
cho hợp tác xã, một mặt huyện cần tổ chức nắm tình hình một số hợp tác xã về diện
tích, năng suất cây trồng, khả năng vật chất và lao động, đời sống của xã viên
nông dân hiện nay và triển vọng những năm tới sắp tới để có tài liệu cụ thể và
kinh nghiệm khi bàn bạc, trao đổi với ban quản trị hợp tác xã, mặt khác, cùng
ban quản trị vạch ra kế hoạch sản xuất và phương án phân phối những năm tới,
làm cho cán bộ, xã viên thấy được khả năng của mình mà tin tưởng, phấn khởi ra
sức sản xuất.
Huyện dựa vào mức kiểm tra của tỉnh,
vào các căn cứ đã đề ra và căn cứ đã đề ra và cân nhắc các mặt, giao mức kiểm
tra cho từng hợp tác xã. Tuy mới là mức kiểm tra, cũng cần tính toán tương đối
sát và bàn bạc trong tập thể huyện ủy, Ủy ban, với cấp xã (đối với hợp tác xã
trong xã đó).
- Sau khi nhận mức kiểm tra của
huyện, chi ủy, ban quản trị hợp tác xã cân nhắc, bàn bạc xác định mức cho hợp
tác xã mình, dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy, Ủy ban hành chính xã. Khi đã cơ bản
nhất trí trong lãnh đạo và với cấp trên, ban quản trị (có sự lãnh đạo của chi ủy)
đưa ra bàn bạc với đội trưởng, đội phó sản xuất để việc định mức bảo đảm một bước
vững chắc. Sau đó, sẽ đưa ra đại hội xã viên thảo luận, làm cho xã viên thấy rõ
mọi khả năng phát triển sản xuất của hợp tác xã do chủ quan có cố gắng và sự
giúp đỡ của Nhà nước, tham gia xây dựng mức ổn định nghĩa vụ của hợp tác xã
mình, phát động quần chúng phấn khởi ra sức sản xuất. Trên cơ sở bàn bạc dân chủ
tập thể với xã viên, ban quản trị lên nhận mức với huyện.
- Huyện cần căn cứ vào ý kiến của
ban quản trị, của xã viên, xem xét tương quan hợp lý về mức nghĩa vụ của các hợp
tác xã trong huyện, định mức cho từng hợp tác xã, rồi báo cáo lên tỉnh, thành
xét duyệt.
Trong thời gian tổ chức học tập
chính sách cho cán bộ, xã viên, bàn bạc dân chủ xây dựng mức, tỉnh, huyện cần
phân công cấp ủy viên, cán bộ có năng lực xuống huớng dẫn giúp đỡ hợp tác xã,
nhất là những hợp tác xã làm nhiều nghĩa vụ và sản xuất hiện nay có nhiều khó
khăn và trực tiếp nghe ý kiến quần chúng để việc chỉ đạo giao mức được sát.
- Việc giao mức ổn định nghĩa vụ
lương thực cho các hộ nông dân cá thể cần được chú ý. Giao mức cho những hộ
này được đúng mức, không những tạo điều kiện cho Nhà nước nắm thêm lực lượng,
giúp cho việc quản lý thị trường lương thực được chặt chẽ mà còn có tác dụng động
viên họ hăng hái sản xuất. Năm 1963, nhiều nơi buông lỏng việc giao mức ổn định
nghĩa vụ cho các hộ nông dân cá thể và thiếu đấu tranh giáo dục họ nghiêm
chỉnh thực hiện nên đã phần nào ảnh hưởng đến việc củng cố hợp tác xã và quản
lý thị trường lương thực.
Về phương pháp giao mức cho hộ
nông dân cá thể thì huyện giao cho Ủy ban hành chính xã nghiên cứu tình hình sản
xuất, huy động và đời sống của từng hộ nông dân cá thể trong mấy năm qua, tính
toán dự kiến mức cho từng hộ. Sau khi đã bàn bạc với từng hộ, Ủy ban hành chính
xã (tham khảo ý kiến của hợp tác xã cân nhắc định mức rồi báo cáo lên Ủy ban
hành chính huyện xét duyệt).
Trong quá trình thực hiện mức ổn
định, cần giáo dục giúp đỡ hộ nông dân cá thể ra sức sản xuất, hoàn thành nghĩa
vụ lương thực đối với Nhà nước. Đối với những người đã qua giáo dục nhiều lần vẫn
dây dưa, thì đề nghị huyện xử lý thích đáng.
c) Điều chỉnh và giảm mức ổn
định nghĩa vụ lương thực
Mức ổn định nghĩa vụ lương thực
Nhà nước giao cho hợp tác xã và hộ nông dân là mức cả năm, có định mức tạm thu
vụ chiêm, hợp tác xã và nông dân có nhiệm vụ hoàn thành mức đó, coi đấy là chỉ
tiêu pháp lệnh của Nhà nước. Trừ những hợp sau đây mới được xét điều chỉnh hoặc
giảm mức ổn định nghĩa vụ lương thực.
Điều chỉnh mức nghĩa vụ:
Trường hợp quy mô hợp tác xã
thay đổi lớn, nếu giữ mức ổn định nghĩa vụ sẽ ảnh hưởng nhiều đến đời sống của
xã viên thì được xét điều chỉnh mức nghĩa vụ như: diện tích sản xuất lương thực
của hợp tác xã do Nhà nước lấy để xây dựng cơ bản, hoặc do chuyển sang trồng
cây khác theo kế hoạch Nhà nước v .v… Khi xét điều chỉnh mức nghĩa vụ của hợp
tác xã, không căn cứ vào sản lượng lương thực trên diện tích đã trích ra trừ
vào mức nghĩa vụ, mà cần cân nhắc cả hai mặt: diện tích bị thu hẹp, diện tích,
năng suất, sản lượng lương thực còn lại và đời sống của xã viên mà điều chỉnh mức
nghĩa vụ cho hợp lý. Trường hợp diện tích trồng lương thực của hợp tác xã trích
ra không đáng kể, không ảnh hưởng nhiều đến đời sống của xã viên, nông dân hoặc
diện tích trồng lương thực của hợp tác xã trích ra làm những công trình phục vụ
sản xuất và đời sống của xã, hợp tác xã, xã viên thì không xét điều chỉnh mức
nghĩa vụ đã ổn định.
Giảm mức nghĩa vụ:
Việc giảm mức nghĩa vụ xét cả
năm không xét riêng từng vụ như trước. Nếu vụ chiêm bị mất mùa nặng mà giữ
nguyên mức tạm thu, đời sống xã viên nông dân có nhiều khó khăn thì Nhà nước có
thể cho hợp tác xã và nông dân tạm hoãn một phần đến vụ mùa. Vụ mùa, hợp tác xã
phải phấn đấu đẩy mạnh sản xuất, để hoàn thành mức nghĩa vụ cả năm.
Nếu vụ mùa lại bị thất bát nặng,
mà giữ mức cả năm thì không bảo đảm mức sống tối thiểu cần thiết cho xã viên
nông dân, Nhà nước sẽ xem xét giảm mức nghĩa vụ cả năm. Trong trường hợp này phải
nắm tình hình thật cụ thể, nắm chắc mức độ bị thất bát của từng hợp tác xã cho
sát với thực tế, khả năng các mặt của hợp tác xã, của xã viên như: lương thực
còn lại, sản xuất rau, màu, dự trữ lương thực còn lại, sản xuất rau, màu, dự trữ
lương thực của hợp tác xã, của xã viên.
Gặp vụ chiêm được mùa, hợp tác
xã có thể làm nghĩa vụ trước cho vụ mùa.
2. Vấn đề
hoa màu (khoai, sắn)
Sản xuất hoa màu có vị trí rất
quan trọng trong vấn đề lương thực. Ở miền Bắc nước ta, muốn tiến lên tự lực giải
quyết vấn đề lương thực một cách vững chắc, phải hết sức coi trọng việc phát
triển sản xuất hoa màu. Nghị quyết của Hội đồng Chính phủ kỳ này đề ra những
chính sách và biện pháp cụ thể nhằm khuyến khích phát triển sản xuất màu hơn nữa.
Cần giao mức ổn định nghĩa vụ
khoai, sắn cho các hợp tác xã và nông dân cá thể ở vùng đại đồng màu mà trước
đâu chưa có nghĩa vị lương thực. Đối với những hợp tác xã này, huyện cần xem
xét kết quả sản xuất và đời sống xã viên trong những năm được mùa màu, năm bình
thường và năm sút kém mà dự kiến mức nghĩa vụ màu hợp lý đưa về hợp tác xã, xã
viên bàn bạc dân chủ đối với hợp tác xã có nghĩa vụ thóc, ngô. Số màu trong
nghĩa vụ ổn định trước hết tính vào chỉ tiêu thuế nông nghiệp mà trước đây hợp
tác xã và hộ nông dân cá thể nộp bằng tiền, số còn lại là mức bán trong nghĩa vụ.
Màu làm nghĩa vụ cho Nhà nước là màu đã được chế biến ra khô.
Đối với hợp tác xã trước đây sản
xuất lúa lại trồng nhiều màu, chỉ mới làm nghĩa vụ thóc, nay giao mức ổn định
nghĩa vụ một phần thóc, một phần màu.
Để phục vụ tốt cho sản xuất hoa
màu, cần tập trung sức giải quyết tốt khâu đào dỡ, chế biến và vận chuyển hoa
màu. Ở các vùng sản xuất màu tập trung, Ủy ban hành chính các cấp cần chỉ đạo tổ
chức việc sản xuất và thu hoạch màu ngang như lúa và phải hết sức coi trọng việc
chế biến màu.
Việc sơ chế màu từ tươi ra khô
chủ yếu là do các hợp tác xã nông nghiệp và xã viên, nông dân đảm nhiệm.
Các sở, ty lương thực cần đề cao trách nhiệm của mình cùng với ty công nghiệp
hướng dẫn, giúp đỡ hợp tác xã về kỹ thuật chế biến, phơi sấy, bảo quản, đồng thời
có kế hoạch với các ngành có liên quan nhất là nhà máy cơ khí của tỉnh, thành sản
xuất các thiết bị công cụ chế biến đơn giản, rẻ tiền bán cho các hộ xã viên
nông dân.
Trong thời vụ trồng cũng như thu
hoạch rộ đề nghị Ủy ban hành chính các cấp vận động học sinh, bộ đội, cán bộ,
công nhân, viên chức Nhà nước xuống giúp đỡ hợp tác xã gieo trồng, thu hoạch,
chế biến, tiêu thụ màu kịp thời nhất là khi dỡ khoai lang gặp mưa kéo dài gây
ra úng lụt. Riêng đối với vùng sản xuất nhiều màu, như khu 4 cũ và miền núi các
sở, ty lương thực cần tổ chức xí nghiệp chế biến màu ra các sản phẩm lương thực,
thực phẩm tiêu dùng thay gạo hoặc sơ chế màu tươi vào những năm được mùa màu và
hợp tác xã chế biến không kịp.
3. Việc mua
lương thực ngoài nghĩa vụ
Sau khi ổn định nghĩa vụ lương
thực, việc mua lương thực ngoài nghĩa vụ là hết sức cần thiết chẳng những để
góp phần bảo đảm cân đối lương thực của Nhà nước và của địa phương, góp phần
vào việc quản lý thị trường tự do về lương thực, mà còn đáp ứng yêu cầu của những
hộ thừa lương thực cần bán và cần mua hàng công nghiệp, kích thức xã viên, nông
dân phấn khởi ra sức phát triển sản xuất, Ủy ban hành chính các tỉnh, thành,
các sở, ty lương thực cần coi đây là một công tác rất quan trọng, chỉ đạo công
tác này đạt kết quả tốt, bảo đảm tăng cường lực lượng cho Nhà nước.
Nhà nước mua lương thực ngoài
nghĩa vụ trực tiếp của hộ thừa là sự mua bán giữa Nhà nước và nông dân trên
tinh thần thuận mua vừa bán và theo phương thức trao đổi hàng công nghiệp.
Tránh ép buộc, mệnh lệnh, nhưng không buông lơi việc mua ngoài nghĩa vụ; giá
mua lương thực theo giá mua trong nghĩa vụ, giá bán hàng công nghiệp trao đổi
theo giá chỉ đạo. Trên tinh thần phục vụ sản xuất, sở, ty lương thực phải cử
cán bộ đi sát các hợp tác xã, theo dõi tình hình ngay từ khi gieo cấy để một mặt
giúp Ủy ban hành chính, các hợp tác xã trong việc sản xuất, mặt khác để có hướng
giúp Ủy ban hành chính tỉnh, huyện nắm vững tình hình, có biện pháp thích hợp để
mua ngoài nghĩa vụ.
Sắp đến vụ thu hoạch, cán bộ
lương thực dựa vào ban quản trị hợp tác xã biết được khái quát phương án dự kiến
ăn chia của hợp tác xã, nắm được các hộ thừa lương thực để đặt kế hoạch ký hợp
đồng với các hộ này mua lương thực ngoài vụ và bán hàng công nghiệp. Tùy theo
yêu cầu của từng bộ, các hộ thừa có thể ký hợp đồng với cán bộ lương thực, bán
lương thực ngoài nghĩa vụ và mua hàng công nghiệp, hoặc không ký hợp đồng mà
khi nào cần mau hàng công nghiệp thì bán.
Ngoài hình thức mua trên đây,
các sở, ty lương thực cần nhờ cửa hàng hợp tác xã mua bán xã mua lương thực
ngoài nghĩa vụ cho Nhà nước trong phạm vi xã mình, cho hưởng một tỷ lệ hoa hồng
nhất định (Bộ sẽ quy định cụ thể). Cần có chế độ sổ sách ghi chép rành mạch,
tránh tham ô, lợi dụng. Các phòng lương thực huyện, cửa hàng lương thực cần
thường xuyên giúp đỡ, kiểm tra và tạo điều kiện tốt như cân, bao bì, nghiệp vụ
thu mua v .v… giúp cửa hàng hợp tác xã mua bán thực hiện nhiệm vụ đó. Xã viên,
nông dân bán lương thực ngoài nghĩa vụ cho Nhà nước qua cửa hàng hợp tác xã mua
bán xã cũng được hưởng mua hàng công nghiệp theo chế độ, nguyên tắc chung như
bán trực tiếp cho cửa hàng lương thực.
Về hàng công nghiệp bán trao đổi
mua lương thực ngoài nghĩa vụ, Chính phủ đã giao cho Bộ Nội thương dành một số
hàng thích hợp với nông dân để làm quỹ hàng hóa bán trao đổi. Sau mỗi vụ, các tỉnh,
thành phố sẽ thanh toán với trung ương số lương thực mua ngoài nghĩa vụ với số
hàng công nghiệp bán trao đổi nhận của trung ương.
Về phương thức bán trao đổi hàng
công nghiệp trong việc mua lương thực ngoài nghĩa vụ, Chính phủ đã giao cho Bộ
Nội thương dành một số hàng thích hợp với nông dân để làm quỹ hàng hóa bán trao
đổi. Sau mỗi vụ, các tỉnh, thành phố sẽ thanh toán với trung ương số lương thực
mua ngoài nghĩa vụ với số hàng công nghiệp bán trao đổi nhận của trung ương.
Về phương thức bán trao đổi hàng
công nghiệp trong việc mua lương thực ngoài nghĩa vụ, cần bàn bạc kỹ giữa ngành
lương thực, thực phẩm và thương nghiệp ở trung ương cũng như ở địa phương. Bộ
Lương thực và thực phẩm và Bộ Nội thương sẽ có thông tư hướng dẫn cụ thể.
4. Giá mua
lương thực trong nghĩa vụ
Để khuyến khích sản xuất lương
thực và để điều hòa giữa các vùng, giữa các hợp tác xã, Hội đồng Chính phủ đã
quy định:
a) Giá mua lương thực trong
nghĩa vụ:
- Thóc từ 0,27đ lên 0,30đ/1kg.
- Ngô từ 0,30đ lên 0,33đ/1kg
b) Nâng giá mua các loại thóc đặc
sản và các loại hoa màu chế biến bán trong nghĩa vụ như sau:
- Thóc nếp cái, dự hương nâng từ
0,34đ lên 0,52đ/1kg.
- Thóc tám thơm nâng từ 0,36đ
lên 0,54đ/1kg
- Khoai lang lát khô nâng từ
0,31đ lên 0,34đ/1kg
- Sắn lát khô (đã bóc vỏ dày)
nâng từ 0,35đ lên 0,38đ/1kg
c) Nâng giá lương thực bán trong
nghĩa vụ cho các vùng sản xuất có nhiều khó khăn (liên khu 4 và đồng chiêm
trũng) như sau:
- Thóc ở vùng từ Nghệ-an trở vào
nâng từ 0,28đ lên 0,32đ/1kg
- Khoai lang lát khô tại liên
khu 4 cũ nâng từ 0,32đ lên 0,35đ/1kg
- Sắn lát khô (đã bóc vỏ dày) tại
liên khu 4 cũ nâng từ 0,36đ lên 0,39đ/1kg
- Thóc ở vùng chiêm vũng đang
trên quá trình cải tạo, đồng ruộng chưa kiến thiết xong, sản xuất thường xuyên
còn gặp khó khăn nâng từ 0,28 lên 0,32đ/1kg (riêng từ Nghệ-an trở vào nâng lên
0,34đ/1kg).
Việc nâng giá nói trên được áp dụng
từ vụ chiêm năm 1970.
Vùng đồng chiêm trũng được hưởng
giá nói trên là những vùng chiêm trũng nay chưa được cải tạo, hay trong quá
trình cải tạo, việc kiến thiết đồng ruộng chưa xong, hiện nay vẫn chỉ cấy được
một vụ chiêm hoặc đã cấy được 2 vụ, nhưng sản xuất còn bấp bênh, hợp tác xã phải
bỏ nhiều công sức vào sản xuất, giá thành sản xuất cao hơn các vùng khác. Những
vùng chiêm trũng chỉ cấy một vụ (hai bát úp một) hoặc đã được cải tạo thành 2 vụ
ăn chắc, điều kiện sản xuất và giá thành sản xuất tương đương như vùng 2 vụ lúa
khác thì không được hưởng giá đồng chiêm trũng.
Ủy ban hành chính các tỉnh có
vùng đồng chiêm trũng cần căn cứ vào những điều kiện nói trên, quy định những hợp
tác xã trong vùng đồng chiêm trũng, báo cáo lên Bộ Lương thực và thực phẩm xét
duyệt kèm theo diện tích, mức thuế nông nghiệp và mức thu mua trong nghĩa vụ của
từng hợp tác xã đó. Trong vụ thu mua, các sở, ty lương thực cần quản lý chặt chẽ
tránh những sơ hở để có tình trạng lợi dụng tham ô, chuyển thóc từ vùng khác
sang vùng đồng chiêm trũng để được hưởng giá cao.
5. Vấn đề vận
chuyển lương thực
Việc vận chuyển lương thực trong
nghĩa vụ là nhiệm vụ của hợp tác xã nông nghiệp và các hộ nông dân cá thể. Để bảo
đảm công bằng giữa các hợp tác xã có làm nghĩa vụ lương thực, Chính phủ đã quy
định mỗi người lao động nông nghiệp (lao động đã quy: 2 lao động phụ bằng 1 lao
động chính) tính bình quân 1 năm có nghĩa vụ vận chuyển số lương thực trong
nghĩa vụ đến kho Nhà nước (gồm thuế nông nghiệp và bán trong nghĩa vụ) 0,5 tấn/km.
Nếu hợp tác xã vận chuyển quá mức quy định trên, Nhà nước sẽ thanh toán cước vận
chuyển theo giá đã quy định cho các loại phương tiện mà hợp tác xã đã dùng để vận
chuyển và thanh toán tiền vận chuyển cho các hợp tác xã như sau:
Hợp tác xã A có 500 lao động, mức
nghĩa vụ lương thực là 150 tấn, cách kho Nhà nước 4km.
Nghĩa vụ vận chuyển của hợp tác
xã A là: 0,5 tấn/km x 500 = 250 tấn/km:
Nhưng hợp tác xã đã vận chuyển:
150 tấn x 4 = 600 tấn/km.
Hợp tác xã A đã vận chuyển quá mức
quy định: 600 tấn/km – 250 tấn/km = 350 tấn/km. Nếu hợp tác xã vận chuyển bằng
xe thô sơ sẽ được thanh toán: 1đ x 350 = 350 đồng.
Hiện nay phương tiện vận chuyển
còn thiếu, nên việc vận chuyển lương thực đến kho Nhà nước chủ yếu vẫn dựa vào
khả năng của hợp tác xã và nông dân. Ở những nơi thuận tiện đường giao thông,
mà địa phương chuẩn bị được phương tiện vận tải thì ty và phòng lương thực cần
tổ chức vận chuyển số lương thực nghĩa vụ tại hợp tác xã trực tiếp đến kho, vừa
giảm bớt được công vận chuyển bốc vác, vừa tiết kiệm được lao động cho hợp tác
xã trong lúc thời vụ khẩn trương. Ngoài ra, khi bố trí mạng lưới thu mua cần
chú ý những vùng, những hợp tác xã sản xuất và làm nhiều nghĩa vụ lương thực để
giảm bớt công vận chuyển cho hợp tác xã.Trong vụ thu mua, cần bố trí cân nhận kịp
thời, làm cho hợp tác xã không mất nhiều thời giờ chờ đợi.
6. Giải quyết
vấn đề lương thực đối với nông dân thiếu ăn
Đối với hợp tác xã ruộng ít, người
nhiều, thường xuyên thiếu lương thực, điều quan trọng là phải xác định
phương hướng sản xuất phù hợp, sử dụng hợp lý lao động, thâm canh tăng năng suất,
tăng sản lượng lương thực, phấn đấu tiến lên tự túc lương thực. Số lao động
không sử dụng hết cần vận động đi tham gia phát triển kinh tế miền núi hoặc các
nơi khác.
Đối với vùng bị thiên tai thất
bát nặng, đời sống nông dân có nhiều khó khăn, Ủy ban hành chính các huyện, xã
cần đề cao tinh thần phụ trách đời sống nhân dân, chủ động vận động nông dân sản
xuất rau màu, các loại lương thực ngắn ngày, sử dụng dự trữ của gia đình, của hợp
tác xã để tự lo liệu đời sống, vận động tương trợ trong nội bộ hợp tác xã, giữa
hợp tác xã này với hợp tác xã khác trong phạm vi huyện, tỉnh. Cuối cùng, tuy đã
cố gắng, nhưng vẫn chưa giải quyết được, thì Ủy ban hành chính tỉnh, thành
trích quỹ lương thực của địa phương giải quyết. Trường hợp diện nông dân thiếu
ăn quá rộng, các tỉnh, thành không đủ khả năng giải quyết, trung ương sẽ nghiên
cứu xem xét, giúp đỡ.
Để giải quyết đời sống của nông
dân trong khi mất mùa, một biện pháp rất quan trọng là cố gắng xây dựng quỹ dự
trữ lương thực của hợp tác xã và của từng gia đình xã viên trên tinh thần đẩy mạnh
sản xuất và tiết kiệm tiêu dùng. Cần quản lý tốt quỹ này, tránh tình trạng lợi
dụng, tham ô, lãng phí quý dự trữ. Một biện pháp quan trọng nữa là các Ủy ban
hành chính tỉnh, huyện, tùy theo thổ ngơi từng vùng mà có kế hoạch cho các hợp
tác xã trồng nhiều rau, màu thu hoạch vào những ngày giáp hạt để làm đời
sống của nông dân từng bước được ổn định bình thường.
II. CHÍNH SÁCH PHÂN PHỐI LƯƠNG THỰC TRONG HỢP TÁC XÃ NÔNG
NGHIỆP
Để khuyến khích mọi người trong
hợp tác xã hăng hái lao động sản xuất tập thể tạo ra nhiều lương thực, thực phẩm
và các sản phẩm khác cho hợp tác xã, cho xã hội và để đấu tranh giáo dục những
người chây lười không chăm lo xây dựng hợp tác xã, không chịu sự quản lý lao động
của hợp tác xã, nghị quyết của Hội đồng Chính phủ đã đề ra việc phân phối lương
thực trong hợp tác xã phải theo đúng nguyên tắc phân phối theo lao động: “Người
làm nhiều được hưởng nhiều, người làm ít được hưởng ít, người có sức lao động
mà không làm thì không được hưởng”. Đồng thời có chính sách thích hợp giúp đỡ
gia đình thiếu lương thực vì thiếu sức lao động, ưu tiên đối với những gia đình
có người đi chiến đấu (Ban quản lý hợp tác xã trung ương đã được Chính phủ giao
trách nhiệm nghiên cứu và hướng dẫn cụ thể về việc phân phối lương thực trong hợp
tác xã).
III. CHÍNH SÁCH CUNG CẤP
LƯƠNG THỰC ĐỐI VỚI NHỮNG NGƯỜI KHÔNG SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP
1. Về việc cung cấp lương thực
đối với khu vực không sản xuất nông nghiệp: Các sở, ty lương thực cần làm tốt
cả hai mặt: phục vụ và quản lý. Cần cải tiến phương thức cung cấp bảo đảm thuận
tiện cho người mua, không phải xếp hàng chờ đợi lâu, bảo đảm phẩm chất. Hết sức
coi trọng việc chế biến bột mì ra mì sợi. bánh mì v .v… Đồng thời phải quản lý
chặt chẽ lương thực, tăng cường kiểm tra, quản lý trong nội bộ ngành, và các cơ
sở được cung cấp, tránh tham ô, lãng phí lương thực nhằm tiết kiệm lương thực của
Nhà nước (Chính phủ sẽ có chỉ thị riêng nhằm đề cao tiết kiệm và quản lý chặt
chẽ lương thực).
2. Chính sách cung cấp lương
thực đối với vùng trồng cây công nghiệp, rau, cây ăn quả, chăn nuôi tập trung
theo quy hoạch của Nhà nước và có hợp đồng bán sản phẩm cho Nhà nước phải
thể hiện được tinh thần mà nghị quyết đã nêu: bảo đảm cho những hợp tác xã
trong vùng này có mức lương thực cần thiết, khuyến khích hợp tác xã sản xuất giỏi,
bán nhiều nông sản cho Nhà nước; bảo đảm cung cấp được kịp thời và thuận tiện,
theo đúng những điều khoản đã ký trong hợp đồng giữa Nhà nước và nông dân. Bộ
Lương thực và thực phẩm và Bộ Nội thương đang nghiên cứu chính sách và biện
pháp cụ thể về việc cung cấp lương thực cho vùng này trình Chính phủ xét ban
hành.
3. Đối với những người làm
nghề phụ và thủ công trong các hợp tác xã nông nghiệp.
Việc phát triển các ngành nghề
thủ công trong hợp tác xã nông nghiệp rất cần thiết để tạo điều kiện cho hợp
tác xã tận dụng được tất cả các loại lao động, sử dụng hợp lý sức lao động
trong thời vụ khẩn trương cũng như lúc nhàn rỗi. Kinh nghiệm nhiều nơi cho thấy,
những hợp tác xã nông nghiệp mở rộng kinh doanh nhiều ngành nghề, quản lý tốt
các ngành nghề đó thì không những quản lý chặt chẽ được lao động, làm tốt việc
phân phối, còn làm tăng thu nhập cho xã viên. Nhờ đó, xã viên đoàn kết, phấn khởi
lao động, hợp tác xã được củng cố vững mạnh. Vì vậy, Nghị quyết số 84-CP của Hội
đồng Chính phủ đã quy định những người làm các ngành nghề thủ công, nói chung
nên để hợp tác xã nông nghiệp quản lý và phân phối lương thực.
Trường hợp ở nơi ít ruộng, có
nhiều người làm nghề thủ công và sản xuất tập trung, có sản lượng lớn và có điều
kiện phát triển, nghề ấy nằm trong quy hoạch sản xuất lâu dài của địa phương
trong quy hoạch sản xuất lâu dài của địa phương, nếu tách thành hợp tác xã thủ
công nghiệp có lợi cho sản xuất công nông nghiệp, tăng thêm sản phẩm cho xã hội,
tăng thêm thu nhập cho xã viên, có lợi cho đoàn kết nông thôn, có lợi cho Nhà
nước thì Ủy ban hành chính tỉnh, thành xét cụ thể và quyết định. Những nơi vừa
qua tách thủ công nghiệp ra khỏi hợp tác xã nông nghiệp không theo
đúng tinh thần trên thì phải xem xét và đưa về hợp tác xã quản lý và phân phối
lương thực.
Trường hợp này, huyện cần giúp
các hợp tác xã bố trí kế hoạch sản xuất, sắp xếp lao động hợp lý, ổn định sản
xuất và đời sống của những người làm ngành nghề thủ công, bảo đảm nghề thủ công
đó vẫn được phát triển.
IV. CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ THỊ
TRƯỜNG LƯƠNG THỰC
Lương thực là một vật tư chiến
lược thuộc nhu cầu thiết yếu của đời sống nhân dân, không thể để lưu thông tự
do như những thứ hàng hóa thông thường.
Vì vậy, cần tăng cường quản lý
thị trường tực do về lương thực, trên tinh thần phấn đấu tích cực thu hẹp và tiến
tới xóa bỏ thị trường tự do về lương thực. Trước mắt, phải nghiêm cấm việc đầu
tư cơ tích trữ lương thực, cấm thương nhân buôn bán thóc, gạo, ngô, bột mì và
các sản phẩm chế biến bằng các loại lương thực ấy. Nghiêm chỉnh thi hành pháp lệnh
cấm nấu rượu trái phép.
Xã viên, nông dân sau khi hoàn
thành nghĩa vụ, nếu còn thừa thóc, gạo, ngô cần bán thì bán ngoài nghĩa vụ
cho Nhà nước hoặc bán cho hộ thiếu trong hợp tác xã, trong xã và các xã lân cận.
Ở thành phố, thị xã, cần triệt để cấm thương nhân buôn bán các mặt hàng
lương thực nói trên. Để đáp ứng nhu cầu chính đáng của nhân dân và tạo điều kiện
quản lý chặt chẽ thị trường lương thực, Nhà nước đã ra chỉ thị cho ngành thương
nghiệp mở rộng kinh doanh ăn uống. Trên cơ sở mở rộng mạng lưới phục vụ, cần
thu hẹp tiểu thương chế biến quà bún bánh. Mậu dịch quốc doanh cần tăng cường
mua màu để chế biến phục vụ nhu cầu ăn uống công cộng.
Trong việc quản lý thị trường, cần
lấy giáo dục thuyết phục làm biện pháp chủ yếu. Nhưng đối với những người đã
giáo dục nhiều lần vẫn tiếp tục buôn bán những mặt hàng lương thực đã cấm thì
có thể xử lý thích đáng.
Để có cơ quan chuyên trách việc
quản lý thị trường ở cấp huyện và xã, thị xã, thị trấn, khu phố, Chính phủ đã
có chỉ thị tổ chức ban quản lý thị trường, nhất là là những nơi có chợ lớn và
trục đường giao thông quan trọng. Ban này gồm đại diện các ngành công an, thuế
vụ, lương thực, thương nghiệp v .v… dưới sự lãnh đạo của Ủy ban hành chính địa
phương, làm nhiệm vụ thực hiện việc quản lý thị trường theo chủ trương, chính
sách chung của Nhà nước, và các thể lệ và biện pháp quản lý thị trường mà Thủ
tướng Chính phủ sẽ có chỉ thị cụ thể.
V. TỔ CHỨC CHỈ ĐẠO THỰC HIỆN
Ổn định nghĩa vụ lương thực là một
chính sách lớn của Đảng và Nhà nước, có tác động mạnh mẽ đến sản xuất nông nghiệp
nói chung, sản xuất lương thực nói riêng, có liên quan nhiều đến các chính sách
của Đảng và Nhà nước ở nông thôn, đến các mặt công tác, đến tổ chức và mọi hoạt
động của hợp tác xã. Vì vậy, việc tổ chức chỉ đạo thực hiện phải được tăng cường
các mặt và tiến hành khẩn trương, kịp thời, phấn đấu hoàn thành việc tổ chức học
tập chính sách và giao mức ổn định nghĩa vụ cho các hợp tác xã nông nghiệp trước
khi thu hoạch vụ chiêm, làm cho nông dân yên tâm chăm sóc và thu hoạch
lúa hoa màu vụ đông xuân, tích cực chuẩn bị sản xuất vụ mùa, tạo điều kiện đẩy
mạnh sản xuất trong những năm tới làm cơ sở việc thực hiện tốt chính sách ổn định
nghĩa vụ lương thực trong 5 năm.
Điều quan trọng là phải làm thật
tốt việc tổ chức nghiên cứu quán triệt sâu rộng chính sách đối với các cấp
chính quyền, các ngành, đối với cán bộ, đảng viên, xã viên nông dân, để mọi người
hiểu rõ và thực hiện đúng đắn chính sách, coi đây là biện pháp hàng đầu.
Riêng đối với các sở, ty lương
thực cần tổ chức học tập cho cán bộ trong ngành kỹ hơn, nhất là cán bộ trực tiếp
làm công tác lương thực ở nông thôn để mọi người nắm vững chính sách và biện
pháp thực hiện, đồng thời phải phân công cán bộ chuyên trách nắm tình hình theo
dõi quá trình thực hiện để sở, ty vừa làm được chức năng làm tham mưu giúp cấp ủy,
Ủy ban hành chính tỉnh, thành, vừa chỉ đạo thực hiện chính sách trong phạm vi
chức năng nhiệm vụ của mình được tốt. Các sở, ty cần coi việc thực hiện chính
sách ổn định nghĩa vụ lương thực là công tác quan trọng số 1 từ nay đến khi
hoàn thành việc giao mức ổn định nghĩa vụ lương thực cho hợp tác xã.
Trong chỉ đạo, các Ủy ban hành
chính tỉnh, thành cần kết hợp việc thực hiện chính sách ổn định nghĩa vụ lương
thực và phân phối lương thực trong hợp tác xã với việc thực hiện điều lệ hợp
tác xã và các chính sách lớn của Đảng và Chính phủ ở nông thôn.
Ủy ban hành chính tỉnh, thành cần
thường xuyên kiểm tra việc thực hiện của các ngành các huyện, tăng cường đôn đốc
các ngành, các huyện hoàn thành những nhiệm vụ đã giao trong từng thời gian và
định chế độ báo cáo kết quả thực hiện. Trong quá trình chỉ đạo, cần thấy trước
và kịp thời uốn nắn những khuynh hướng lệch lạc có thể phát sinh ở nơi này hay
nơi khác như ngại khó, muốn hoãn việc thi hành chính sách đến vụ mùa, chỉ thấy
yêu cầu của nông dân không thấy yêu cầu của Nhà nước hoặc ngược lại, chỉ chú ý
nguyên tắc phân phối theo lao động mà coi nhẹ việc thi hành chính sách lương thực
đối với các đối tượng được ưu tiên, chiếu cố hoặc ngược lại, coi nhẹ việc quản
lý thị trường v .v…
Chính sách ổn định nghĩa vụ
lương thực và phân phối lương thực trong nội bộ các hợp tác xã rất quan trọng,
làm tốt nông dân sẽ phấn khởi hăng hái lao động, sản xuất được phát triển, đời
sống xã viên nông dân được ổn định, việc lưu thông phân phối lương thực của Nhà
nước có điều kiện thực hiện được tốt hơn. Sự quan tâm chỉ đạo của Ủy ban hành
chính các cấp có ý nghĩa quyết định trong việc thực hiện. Sở, ty lương thực cần
vươn lên thực hiện tốt chính sách trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình để
góp phần làm cho chính sách sớm phát huy tác dụng tích cực đối với sản xuất và
đời sống.
|
BỘ TRƯỞNG BỘ
LƯƠNG THỰC VÀ THỰC PHẨM
Ngô Minh Loan
|