BỘ
TRƯỞNG TỔNG THƯ KÝ
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
39-BT
|
Hà
Nội, ngày 21 tháng 4 năm 1982
|
THÔNG TƯ
CỦA BỘ TRƯỞNG TỔNG THƯ KÝ SỐ 39-BT NGÀY 21 THÁNG 4 NĂM 1982
HƯỚNG DẪN THI HÀNH ĐIỀU LỆ KHEN THƯỞNG TỔNG KẾT THÀNH TÍCH KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ,
CỨU NƯỚC; TỔNG KẾT THÀNH TÍCH KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP Ở MIỀN NAM VÀ THÀNH TÍCH
GIÚP ĐỠ CÁCH MẠNG TRƯỚC NGÀY TỔNG KHỞI NGHĨA THÁNG 8 NĂM 1945
Hội đồng Nhà nước đã ban hành Điều
lệ khen thưởng tổng kết thành tích kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nay Hội đồng
Bộ Trưởng quy định cụ thể và hướng dẫn thi hành điều lệ như sau:
A. KHEN THƯỞNG
TỔNG KẾT THÀNH TÍCH KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ ĐỐI VỚI CÁN BỘ, NHÂN VIÊN, CHIẾN SĨ
I. ĐỐI TƯỢNG ĐƯỢC XÉT KHEN THƯỞNG
GỒM CÓ
1. Cán bộ, chiến sĩ các lực lượng
vũ trang nhân dân bao gồm quân đội nhân dân, công an nhân dân vũ trang và công
an nhân dân hoặc an ninh nhân dân.
2. Cán bộ, công nhân, viên chức
trong các cơ quan Nhà nước, kể cả công nhân quốc phòng và cán bộ các đoàn thể
cách mạng.
3. Thanh niên xung phong được tổ
chức trong thời kỳ 1965 - 1975 theo Chỉ thị số 71-CP ngày 25-6-1965 của Hội đồng
Chính phủ.
4. Các đối tượng được xét khen
thưởng theo tiêu chuẩn chung:
a) Cán bộ xã:
- Bí thư, phó bí thư và các uỷ
viên ban chấp hành đảng bộ, hoặc chi bộ (ở nơi không có tổ chức đảng bộ cơ sở);
- Chủ tịch, Phó chủ tịch và uỷ
viên thư ký của các Uỷ ban hành chính, Mặt trận dân tộc giải phóng, nhân dân
cách mạng (nay là Uỷ ban nhân dân);
- Trưởng, phó các ban, ngành như
xã đội, công an hoặc an ninh, kinh tế, tài cính, lượng thực, giao bưu, văn hoá,
thông tin, y tế, thương binh xã hội, đấu tranh chính trị, binh vận, dân vận,
công trường sản xuất vũ khí...;
- Cán bộ phụ trách các văn phòng
Đảng uỷ, Uỷ ban hành chính, Mặt trận dân tộc giải phóng, Uỷ ban nhân dân cách mạng
và cán bộ khác thường xuyên công tác có hưởng phụ cấp.
b) Trưởng, phó các đoàn thể nhân
dân: Mặt trận, thanh niên, phụ nữ, nông hội.
c) Cán bộ hợp tác xã:
- Chủ nhiệm, phó chủ nhiệm, trưởng
ban kiểm soát, kế toán trưởng các hợp tác xã nông nghiệp (kể cả lâm nghiệp, ngư
nghiệp, nghề muối hợp tác xã xây dựng và hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp trong
diện được hưởng các chế độ theo Chỉ thị số 221-TTg ngày 21-12-1968 của Thủ tướng
Chính phủ và Quyết định số 84-CP ngày 4-5-1966 của Hội đồng Chính phủ.
- Chủ nhiệm, phó chủ nhiệm hợp
tác xã mua bán, hợp tác xã tín dụng.
5. Các đối tượng được xét khen
thưởng theo tiêu chuẩn chung với điều kiện phải tăng thêm hai năm:
a) Cán bộ xã:
- Uỷ viên các Uỷ ban hành chính,
Dân tộc giải phóng, Nhân dân cách mạng.
- Uỷ viên các ban chuyên môn.
- Uỷ viên ban chấp hành các đoàn
thể nhân dân.
- Cán bộ, nhân viên chuyên môn
nghiệp vụ của các ban, ngành kể cả bưu tá viên, giáo viên bổ túc văn hoá, mẫu
giáo, vỡ lòng và nhân viên nhà trẻ.
b) Cán bộ ấp, thôn, xóm:
- Bí thư, Phó bí thư và các uỷ
viên ban chấp hành chi bộ.
- Tổ trưởng, tổ phó tổ Đảng ở miền
Nam.
- Uỷ viên ban nhân dân cách mạng
thôn, ấp.
- Trưởng các ngành, các đoàn thể
quần chúng ở thôn, ấp miền Nam.
- Bí thư chi đoàn, chi hội trưởng
phụ nữ ở miền Bắc.
- Ban chỉ huy thôn đội du kích ở
miền Nam hoặc ban chỉ huy trung đội dân quân du kích ở miền Bắc.
- Đội viên du kích thôn ở miền
Nam.
- Nhân viên công an ở miền Bắc
hoặc an ninh ở miền Nam.
c) Cán bộ hợp tác xã
- Uỷ viên các ban quản trị, kiểm
soát; trưởng các tiểu ban, bộ môn giúp việc các hợp tác xã nông nghiệp, lâm
nghiệp, nghề muối.
- Đội trưởng, đội phó, thư ký
các đội sản xuất.
- Cán bộ kỹ thuật.
d) Cán bộ khối phố (hoặc tiểu
khu phố - nay là phường) gồm có:
- Bí thư, phó bí thư chi bộ và
các uỷ viên ban chấp hành chi bộ, tổ trưởng, tổ phó tổ đảng.
- Trưởng, phó ban đại biểu, hoặc
ban hành chính.
- Trưởng, phó ban bảo vệ; khu đội
trường, khu đội phó.
- Các trưởng tiểu ban khối phố,
uỷ viên thư ký tiểu khu.
6. Tự vệ và dân quân du kích gồm
có:
a) Ở miền Bắc:
- Tự vệ và du kích cơ động trực
chiến ở các huyện, xã, tiểu khu phố, cơ quan, xí nghiệp, hợp tác xã... không
thoát ly sản xuất trong thời kỳ chống chiến tranh phá hoại được khen thưởng
theo tiêu chuẩn chung;
- Tự vệ và du kích thoát ly sản
xuất, do các ban chỉ huy quân sự huyện, thị xã, khu phố trực tiếp chỉ huy trong
thời kì chống chiến tranh phá hoại, được xét khen thưởng theo tiêu chuẩn của
cán bộ, chiến sĩ các lực lượng vũ trang nhân dân phục vụ ở miền Bắc.
b) Ở miền nam: Du kích xã thoát
ly sản xuất; cán bộ, đội viên các đội công tác, tuyên truyền vũ trang, an ninh
vũ trang, biệt động (bao gồm cán bộ chỉ huy và đội viên hoạt động trong vùng địch
kiểm soát), được xét khen thưởng theo tiêu chuẩn của cán bộ, chiến sĩ các lực
lượng vũ trang nhân dân phục vụ ở miền Nam.
II. TIÊU CHUẨN KHEN THƯỞNG
1. Vùng thường xuyên có chiến sự
ở miền Bắc gồm các tỉnh Hà Tĩnh, Nghệ An, Quảng Bình và khu Vĩnh Linh, tính từ
ngày 5 tháng 8 năm 1964 đến ngày 28 tháng 1 năm 1973.
2. Về điều kiện công tác tích cực
và liên tục.
a) Những người đã thôi công tác
trước ngày 30 tháng 4 năm 1975 nhưng tính đến ngày thôi công tác đã có đủ điều
kiện được khen thưởng như điều lệ quy định thì được xét khen thưởng nếu ở vào một
trong các trường hợp sau đây:
- Về hưu, nghỉ việc vì mất sức
lao động;
- Vì thương tật hoặc bệnh tật mà
không thể công tác đến ngày 30 tháng 4 năm 1975;
- Phục viên, xuất ngũ sau khi
làm xong nghĩa vụ quân sự;
- Thôi việc do không được bầu
vào chức vụ, hoặc vì có sự phân công lại trong tổ chức, nhưng vẫn tham gia công
tác thuộc diện cán bộ, nhân viên xã, tiểu khu phố...
b) Những người bị thương trong
khi làm nhiệm vụ thì thời gian đi điều trị được tính vào thời gian tham gia
kháng chiến, không hạn chế số năm.
c) Những người đi học hoặc đi chữa
bệnh ở trong nước nếu không quá một phần tư (1/4) thời gian công tác, ở ngoài
nước nếu không quá một phần năm (1/5) thời gian công tác, thì được tính là thời
gian liên tục tham gia kháng chiến.
d) Những người đi công tác ở nước
ngoài được tính là phục vụ ở vùng hậu phương miền Bắc.
Những người phục vụ ở miền Nam,
Lào, Căm-pu-chia được chuyển ra các tỉnh hậu phương miền Bắc, hoặc ra nước
ngoài đi học, hoặc chữa bệnh trong 2 năm, rồi trở lại tiền tuyến công tác, thì
thời gian ấy vẫn được coi như liên tục công tác ở miền Nam, Lào, Căm-pu-chia,
thời gian sau 2 năm tính theo tiêu chuẩn vùng hậu phương miền Bắc. Trường hợp
đi học, hoặc chữa bệnh xong đã ở lại công tác ở miền Bắc hoặc đã đến ngày 30
tháng 4 năm 1975, thì thời gian công tác ở miền Nam, Lào, Căm-pu-chia chỉ được
tính đén ngày ra đến miền Bắc.
đ) Những người cơ quan cho nghỉ
phép công tác và sau lại tiếp tục công tác thì được cộng thời gian trước và sau
khi nghỉ để xét khen thưởng.
e) Những người tự ý bỏ công tác,
nếu sau đó lại được tiếp tục công tác cho đến ngày 30-4-1975, thì chỉ được tính
thời gian kể từ khi trở lại tiếp tục công tác.
g) Những người công tác trong
vùng địch lấn chiếm, bị đứt liên lạc với tổ chức nhưng vẫn tiếp tục hoạt động
cách mạng, và được tổ chức thừa nhận, thì được coi là liên tục công tác.
h) Những học sinh đại học và
trung học chuyên nghiệp đang trong thời kỳ tập sự và những người làm việc theo
chế độ hợp đồng (được hưởng bảo hiểm xã hội) hay tạm tuyển trước ngày 30 tháng
4 năm 1975 thì thời gian đó được tính là thời gian tham gia kháng chiến.
i) Những người chỉ hoạt động ở
miền Bắc phải có thời gian phục vụ trong thời kỳ từ ngày 5 tháng 8 năm 1964 đến
ngày 28 tháng 1 năm 1973 ít nhất là 2 năm 9 tháng; riêng đối với quân đội nhân
dân, công an nhân dân, tự vệ và du kích cơ động trực chiến và thanh niên xung
phong, thì được tính đến ngày 30 tháng 4 năm 1975. Nếu không đủ điều kiện trên
thì được khen thưởng thấp hơn một mức so với tiêu chuẩn chung.
3. Về điều kiện không phạm sai lầm
nghiêm trọng:
a) Những người được khen thưởng
phải là những người không phạm sai lầm nghiêm trọng trong thời kỳ kháng chiến
và cho đến khi xét khen thưởng.
b) Những trường hợp sau đây bị
coi là phạm sai lầm nghiêm trọng và không được khen thưởng:
- Có hành động phản bội, đầu
hàng, làm tay sai cho địch ...;
- Bì toà án phạt tù;
- Bị kỷ luật buộc thôi việc;
- Bị tước quân tịch;
- Bị loại ngũ;
- Bị tước danh hiệu sĩ quan dự bị,
hạ sĩ quan dự bị, binh sĩ dự bị.
c) Những người đã bị thi hành kỷ
luật của chính quyền hoặc đoàn thể từ hình thức cảnh cáo trở lên thì tuỳ theo sự
đóng góp công lao trước đây cho kháng chiến, tính chất sai lầm và thái độ hối cải
mà khen thưởng đúng mức, hoặc phải hạ mức khen thưởng.
d) Những người bị cách chức, hoặc
bị kỷ luật lưu Đảng, hoặc bị khai trừ, thì phải hạ ít nhất là một mức khen thưởng.
đ) Những người đã mãn hạn tù mà
sau lại được tiếp tục công tác thì sẽ căn cứ vào tính chất của sai lầm đã phạm,
thái độ hối cải trong thời gian ở tù cũng như thời gian công tác về sau mà xét
khen hay không khen; nếu được khen thưởng, thì không tính thời gian công tác
trước khi bị phạt tù.
e) Những sai lầm, khuyết điểm phạm
phải trong thời kỳ trước tháng 7 năm 1954 và đã xét để hạ mức khen hoặc không
được khen thưởng trong dịp tổng kết thành tích kháng chiến chống Pháp thì trong
dịp khen thưởng tổng kết thành tích kháng chiến chống Mỹ không xét đến nữa.
g) Những sai lầm, khuyết điểm
trong thời gian kháng chiến chống Mỹ đã được xét khi khen thưởng huân chương,
huy chương Chiến sĩ vẻ vang; Chiến sĩ giải phóng; huân chương, huy chương Quyết
thắng... thì vẫn phải xét trong dịp khen thưởng tổng kết lần này.
h) Những người đang bị truy tố,
khởi tố, hoặc là đối tượng điều tra để khởi tố; hoặc đang là đối tượng của cuộc
đấu tranh chống tiêu cực theo Chỉ thị số 81-CP/TƯ ngày 10-11-1979 và Chỉ thị số
108-CT/TƯ ngày 14-5-1981 của Ban Bí thư Trung ương Đảng mà chưa được kết luận
rõ ràng, thì hoãn xét khen thưởng.
i) Những người trước đây đã tham
gia kháng chiến mà bị địch bắt và bị ép buộc làm nguỵ quân, nguỵ quyền, nhưng
không làm hại kháng chiến, làm hại nhân dân, sau lại được các tổ chức kháng chiến
tiếp nhận trở lại cho đến ngày 30-4-1975 thì cũng được xét khen thưởng. Trong
trường hợp này, nếu thời gian gián đoạn công tác không quá một năm, thì cộng thời
gian trước và thời gian sau để tính khen thưởng, nếu thời gian gián đoạn quá một
năm thì chỉ được tính thời gian phục vụ công tác từ ngày trở lại hàng ngũ kháng
chiến.
4. Việc khen thưởng đối với một
số trường hợp đặc biệt:
a) Những người bị địch bắt mà đã
được xác minh là không hàng phục, không làm chỉ điểm, gián điệp cho địch, không
làm điều gì có hại cho kháng chiến, thì thời gian bị địch cầm tù được tính như
thời gian công tác ở miền Nam.
Nếu có khai báo với địch, thì tuỳ
theo mức độ ảnh hưởng của lời khai đối với cách mạng, mà xét khen hay không
khen, hoặc không tính thời gian bị tù. Trường hợp này phải được tổ chức cách mạng
ở cơ sở xác nhận và do các Bộ, các Uỷ ban nhân dân tỉnh xét quyết định việc
khen thưởng.
b) Những người bị mất tích đã được
công nhận là liệt sĩ thì xét khen thưởng như liệt sĩ.
c) Khi vận dụng tiêu chuẩn, nếu
thời gian tham gia kháng chiến thiếu không đến một tháng đối với huy chương,
không đến hai tháng đối với huân chương thì có thể châm chước.
Đối với cán bộ, chiến sĩ và công
nhân, viên chức thuộc các dân tộc ít người và đối với cán bộ, công nhân, viên
chức và chiến sĩ phục vụ ở vùng rừng núi, hải đảo, nếu đã hoạt động dưới 10
năm, thì được châm chước 3 tháng; từ 10 năm trở lên, thì châm chước 6 tháng.
d) Thời gian tham gia kháng chiến
của những người dưới 18 tuổi mà được các tổ chức công nhân trong biên chế thì
được tính để xét khen thưởng.
B. KHEN THƯỞNG
NHÂN DÂN CÓ THÀNH TÍCH THAM GIA KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC
Hội đồng Bộ trưởng giao cho viện
Huân chương căn cứ Điều 6 của điều lệ để hướng dẫn cụ thể
tiêu chuẩn khen thưởng cho nhân dân.
C. MỘT SỐ QUY
ĐỊNH BỔ SUNG VỀ ĐIỀU KIỆN KHEN THƯỞNG THÀNH TÍCH GIÚP ĐỠ CÁCH MẠNG TRƯỚC NGÀY TỔNG
KHỞI NGHĨA THÁNG 8 NĂM 1945 VÀ THÀNH TÍCH KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP Ở MIỀN NAM.
1. Chỉ xét khen thưởng cho những
gia đình và cá nhân tiếp tục tham gia kháng chiến chống Mỹ và không phạm tội chống
Tổ quốc, chống cách mạng, hoặc những tội ác nghiêm trọng khác.
2. Nếu không được khen hoặc bị hạ
mức khen thưởng kháng chiến chống Mỹ, thì tuỳ theo thái độ chính trị cụ thể mà
xét khen thưởng nguyên mức, hạ mức, hoặc không được khen thưởng về thành tích
giúp đỡ cách mạng và tham gia kháng chiến chống Pháp.
3. Chỉ xét khen thưởng cán bộ
thoát ly và cán bộ xã trong kháng chiến chống Pháp nếu trong kháng chiến chống
Mỹ đạt mức bằng khen của Hội đồng bộ trưởng trở lên; điều kiện này không áp dụng
đối với những người không đủ thâm niên xét thưởng về thành tích kháng chiến chống
Mỹ, nhưng không phạm sai lầm nghiêm trọng mà đã từ trần hoặc đã được tổ chức
cho thôi việc trước ngày 30 tháng 4 năm 1975.
D. TỔ CHỨC VÀ
CHỈ ĐẠO KHEN THƯỞNG
1. Việc xét khen thưởng căn cứ
vào hồ sơ lý lịch và bản tự khai của mỗi người. Những người nào khai man hoặc
chứng nhận thành tích không đúng sự thật sẽ bị thi hành kỷ luật; huân, huy
chương sẽ bị thu hồi.
Uỷ ban nhân dân các cấp có trách
nhiệm xét khen thưởng cho cho các liệt sĩ, không để các gia đình phải khai báo.
2. Thủ trưởng các Bộ, các cơ
quan, đoàn thể trung ương, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố và đặc khu
trực thuộc trung ương có trách nhiệm thực hiện việc xét và đề nghị khen thưởng
theo điều 9 của điều lệ đã quy định và được uỷ nhiệm thẩm
xét lần cuối cùng các đề nghị thưởng từ huân chương Kháng Chiến hạng ba trở xuống.
3. Việc xét khen thưởng phải
hoàn thành chậm nhất là ngày 31 tháng 12 năm 1984.
Hạn cuối cùng gửi các đề nghị
khen thưởng lên Hội đồng Bộ trưởng là ngày 31 tháng 3 năm 1985.
4. Ở các đơn vị cơ sở, xã, phường,
công ty, xí nghiệp, cửa hàng, bệnh viện, trường học, cơ quan Nhà nước... thành
lập hội đồng khen thưởng để làm nhiệm vụ xét duyệt và đề nghị khen thưởng cho
nhân dân và cán bộ, công nhân, viên chức thuộc mình quản lý. Tổ chức và hoạt động
của Hội đồng này do Viện Huân chương hướng dẫn.
5. Việc xét khen thưởng ở các Bộ,
Uỷ ban Nhà nước, cơ quan khác thuộc Hội đồng bộ trưởng do bộ phận tổ chức cán bộ
chuẩn bị hồ sơ trình thủ trưởng quyết định; ở các tỉnh hoặc các huyện do ban
thi đua khen thưởng phối hợp với cơ quan tổ chức cán bộ và cơ quan thương binh
xã hội chuẩn bị hồ sơ trình Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh hoặc huyện quyết định.
6. Bộ Quốc phòng, Bộ Nội vụ hướng
dẫn cụ thể việc tổ chức thực hiện việc khen thưởng này trong lực lượng vũ trang
nhân dân.
7. Viện Huân chương có trách nhiệm
giúp Hội đồng bộ trưởng hướng dẫn chi tiết và đôn đốc, kiểm tra việc khen thưởng
này.
(Việc khen thưởng huân chương
Sao Vàng, huân chương Hồ Chí Minh, huân chương Độc lập, huân chương Quân Công,
ghi trong Điều 8 của điều lệ sẽ có thông tư hướng dẫn
riêng).