Thứ 2, Ngày 28/10/2024

Thông tư 341-KHKT/TT-1976 hướng dẫn thi hành Điều lệ kiểm tra chất lượng sản phẩm và hàng hoá do Uỷ ban Khoa học và kỹ thuật Nhà nước ban hành

Số hiệu 341-KHKT/TT
Ngày ban hành 11/09/1976
Ngày có hiệu lực 26/09/1976
Loại văn bản Thông tư
Cơ quan ban hành Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước
Người ký Lê Khắc
Lĩnh vực Thương mại

UỶ BAN KHOA HỌC VÀ KỸ THUẬT NHÀ NƯỚC
********

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 341-KHKT/TT

Hà Nội, ngày 11 tháng 9 năm 1976

 

THÔNG TƯ

CỦA UỶ BAN KHOA HỌC VÀ KỸ THUẬT NHÀ NƯỚC SỐ 341-KHKT/TT NGÀY 11 THÁNG 9 NĂM 1976 VỀ VIỆC HƯỚNG DẪN THI HÀNH ĐIỀU LỆ KIỂM TRA CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM HÀNG HOÁ

Ngày 12-4-1976, Hội đồng Chính phủ đã ra Nghị định số 62/CP ban hành điều lệ kiểm tra chất lượng sản phẩm và hàng hoá (1).
Căn cứ vào Điều 2 cuả Nghị định, Uỷ ban khoa học kỹ thuật Nhà nước ra thông tư quy định cụ thể và hướng dẫn thi hành Điều lệ trên như sau:

I- NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG

1- Kiểm tra chất lượng sản phẩm và hàng hoá là biện pháp quan trọng để quản lý chất lượng quản lý sản xuất - kinh doanh trong nền kinh tế xã hội chủ nghĩa.

Hội đồng Chính phủ ban hành điều lệ này để thống nhất quản lý về tổ chức và hoạt động kiểm tra chất lượng sản phẩm và hàng hoá trong cả nước, định rõ trách nhiệm của các ngành, các cấp đối với công tác này, đồng thời đề ra một số biện pháp về quản lý kinh tế cần được thực hiện để bảo đảm hiệu lực của công tác kiểm tra chất lượng.

2- Khi nghiên cứu và thi hành điều lệ của quán triệt mục đích và những nguyên tắc cơ bản đã đề ra trong chương I của điều lệ, cụ thể là:

a) Các sơ sở sản xuất có trách nhiệm tổ chức thực hiện công tác kiểm tra chất lượng sản phẩm trong quá trình sản xuất, bảo đảm chất lượng sản phẩm phù hợp với yêu cầu đã đề ra, chủ động khắc phục những nguyên nhân ảnh hưởng xấu đến chất lượng sản phẩm của cơ sở mình sản xuất ra.

Công tác kiểm tra chất lượng sản phẩm hàng hoá ở các xí nghiệp công nghiệp quốc doanh phải được tổ chức thực hiện theo điều lệ về công tac này đã được ban hành theo Quyết định số 26/C P ngày 21-2-1974 của Hội đồng Chính phủ.

b) Các cơ sở lưu thông phân phối có trách nhiệm tổ chức thực hiện việc kiểm tra chất lượng hàng hoá ở các khâu giao nhận, vận chuyển, bảo quản, bán ra và chịu trách nhiệm bảo đảm chất lượng hàng hoá cuả cơ sở mình kinh doanh theo đúng thể lệ, chế độ hiện hành.

c) Việc kiểm tra Nhà nước về chất lượng sản phẩm và hàng hoá do hệ thống kiểm tra chuyên trách tiến hành tại cơ sở, theo nhiệm vụ và quyền hạn đựơc ghi trong Chương V của Điều lệ để bảo đảm sự quản lý của Nhà nước đối với chất lượng sản phẩm và hàng hoá. Việc kiểm tra này không làm giảm trách nhiệm trực tiếp đối với tình trạng chất lượng sản phẩm, hàng hoá của cá nhân hay đơn vị đã sản xuất kinh doanh những sản phẩm đó.

d) Các cơ quan quản lý sản xuất kinh doanh ở các ngành, các cấp có trách nhiệm trực tiếp quản lý và chỉ đạo thực hiện công tác kiểm tra chất lượng đối với các đơn vị kinh tế cơ sở thuộc quyền quản lý theo nội dung quy định ở Điều 4 và 5 Chương I của Điều lệ.

3- Một số biện pháp quan trọng về quản lý kinh tế cần được thực hiện để bảo đảm hiệu lực của công tác kiểm tra chất lượng sản phẩm như kế hoạch hoá chất lượng sản phẩm, đưa chất lượng thực sự trở thành chỉ tiêu pháp lệnh trong kế hoạch sản xuất - kinh doanh, chế độ giá cả theo phẩm cấp, theo nội dung Chương III của điều lệ, được quyết định cụ thể và hướng dẫn thi hành theo Thông tư liên Bộ Uỷ ban Khoa học và Kỹ thuật nhà nước, Uỷ ban Kế hoạch nhà nước và Uỷ ban Vật giá nhà nước.

4- Để khuyến khích việc bảo đảm và nâng cao chất lượng sản phẩm, phấn đấu hoàn thành vượt mức kế hoạch chất lượng đồng thời khống chế đến mức thấp nhất những thiệt hại về sản phẩm không đạt yêu cầu chất lượng, Chính phủ sẽ ban hành chế độ khen thưởng và trách nhiệm vật chất đối với chất lượng sản phẩm. Trong khi chờ Chính phủ ban hành chính thức chế độ trên, trong phạm vi nhiệm vụ và quyền hạn của mình, các ngành, các cấp có thể nghiên cứu áp dụng những biện pháp chế tài thích hợp căn cứ theo những nguyên tắc đã đề ra trong Chương VI của điều lệ.

Việc xử phạt đối với những trường hợp vi phạm nói ở Điều 30, Chương VI của điều lệ sẽ được hướng dẫn thực hiện theo thông tư liên bộ Uỷ ban Khoa học và kỹ thuật Nhà nước, Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước.

II- CHẾ ĐỘ KIỂM TRA CHẤT LƯỢNG

Căn cứ chế độ kiểm tra đã quy định trong Chương III và nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan kiểm tra chất lượng trong Chương V của điều lệ, thông tư này quy định cụ thể về chế độ kiểm tra như sau:

1- Chế độ kiểm tra Nhà nước - áp dụng cho việc kiểm tra thường xuyên, định kỳ hoặc đột xuất của Cục kiểm tra chất lượng sản phẩm và hàng hoá (hoặc các cơ sở khu vực trực thuộc Cục) đối với các cơ sở sản xuất - kinh doanh thuộc các ngành, các cấp; của tổ chức kiểm tra chất lượng sản phẩm và hàng hoá địa phương (tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương) đối với các có sở sản xuất, kinh doanh thuộc quyền quản lý của địa phương và các cơ sở khác do Cục kiểm tra chất lượng sản phẩm và hàng hoá uỷ quyền.

1.1- Tất cả các cơ sở sản xuất, các cơ sở cung ứng vật tư và lưu thông phân phối thuộc các khu vực kinh tế quốc doanh, công tư hợp doanh, hợp tác xã và tư doanh đều chịu sự kiểm tra Nhà nước về tình hình chất lượng sản phẩm chất lượng và về việc thực hiện các chế độ, thể lệ đối với chất lượng sản phẩm và hàng hoá do các cơ quan kiểm tra chất lượng có thẩm quyền tiến hành tại cơ sở mình.

Nội dung và thủ tục kiểm tra theo quy định ở các Điều 11, 13, 14, 15, 16, 17, 18, 19 và 20, Chương III của Điều lệ.

1.2- Khi thừa hành nhiệm vụ, cán bộ được uỷ nhiệm của thủ trưởng cơ quan kiểm tra chất lượng có những quyền hạn sau đây:

a) Được vào những nơi cần thiết trong các sơ sở nói trên để kiểm tra chất lượng sản phẩm và hàng hoá, xem xét các điều kiện và biện pháp để bảo đảm chất lượng, xem xét việc thực hiện các chính sách, chế dộ, thể lệ đối với chất lượng sản phẩm và hàng hoá.

b) Lập biên bản, ghi nhận xét, kết luận và đề ra những yêu cầu đối với đơn vị hoặc cá nhân được kiểm tra để khắc phục những nguyên nhân ảnh hưởng xấu đến chất lượng, khắc phục những biểu hiện vi phạm chính sách, chế độ, thể lệ hoặc quy định về chất lượng sản phẩm và hàng hoá

c) Kiến nghị với cấp có thẩm quyền khen thưởng những đơn vị và cá nhân có thành tích bảo đảm và nâng cao chất lượng sản phẩm, hàng hoá; tổ chức thực hiện tốt công tác kiểm tra chất lượng; giúp đỡ cán bộ kiểm tra hoàn thành tốt nhiệm vụ.

Kiến nghị cấp có thẩm quyền xử lý việc vi phạm của các đơn vị và cá nhân trong các trường hợp nêu ở Điều 30 và 31, Chương VI của điều lệ.

d) Kiến nghị đình chỉ những việc làm vi phạm quy định về chất lượng sản phẩm, hàng hoá xét thấy đang hoặc sẽ gây thiệt hại cho tài sản của Nhà nước, cuả tập thể hoặc gây thiệt hại cho nhân dân, đồng thời báo cáo ngay cho cấp có thẩm quyền biết để kịp có quyết định cần thiết.

e) Được lấy mẫu sản phẩm, hàng hoá hoặc giữ lại những tang vật, tài liệu cần thiết cho việc kiểm tra, thử nghiệm. Những mẫu, tang vật, tài liệu này phải ghi đầy đủ trong biên bản kiểm tra và phải làm đầy đủ thủ tục biên nhận cũng như giao trả lại đơn vị hoặc cá nhân được kiểm tra.

1.3- Khi tiến hành kiểm tra theo kế hoạch định kỳ, trước mỗi kỳ kiểm tra, thủ trưởng cơ quan kiểm tra chất lượng sản phẩm và hàng hoá sẽ có thông báo cho cơ sở được kiểm tra biết để chuẩn bị theo nội dung đã quy định ở Điều 16, Chương III của điều lệ. Cơ quan kiểm tra chất lượng sản phẩm và hàng hoá sẽ tổ chức đoàn kiểm tra có sự phối hợp của cơ quan chủ quản của cơ sở được kiểm tra và các cơ quan có liên quan. Đoàn kiểm tra này do cán bộ được uỷ nhiệm của thủ trưởng cơ quan kiểm tra chất lượng sản phẩm và hàng hoá làm trưởng đoàn.

[...]