Thông tư số 32-TTg năm 1963 hướng dẫn Nghị quyết 55-CP về chính sách ổn định nghĩa vụ lương thực trong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất do Thủ tướng Chính phủ ban hành

Số hiệu 32-TTg
Ngày ban hành 24/04/1963
Ngày có hiệu lực 09/05/1963
Loại văn bản Thông tư
Cơ quan ban hành Thủ tướng Chính phủ
Người ký Phạm Hùng
Lĩnh vực Lĩnh vực khác

THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
******

VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 32-TTg

Hà Nội, ngày 24 tháng 04 năm 1963 

 

THÔNG TƯ

HƯỚNG DẪN THI HÀNH NGHỊ QUYẾT SỐ 55-CP NGÀY 24-4-1963 CỦA HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ VỀ CHÍNH SÁCH ỔN ĐỊNH NGHĨA VỤ LƯƠNG THỰC TRONG KẾ HOẠCH 5 NĂM LẦN THỨ NHẤT

Hội đồng Chính phủ trong phiên họp toàn thể ngày 2 tháng 4 năm 1963 đã nhận định về tình hình sản xuất và công tác lương thực từ năm 1960 đến nay, và đề ra chính sách ổn định nghĩa vụ lương thực trong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất.

Các Bộ, các ngành có liên quan ở trung ương và Ủy ban hành chính các cấp cần nghiên cứu kỹ nghị quyết số 55-CP của Hội đồng Chính phủ và đặt kế hoạch thi hành nghiêm chỉnh.

Trong thông tư này, Thủ tướng Chính phủ giải thích rõ thêm những điểm mới trong nội dung chính sách và nêu lên những việc cụ thể mà các ngành, các ngành, các cấp cần làm để việc chỉ đạo và tổ chức thực hiện đạt được kết quả tốt.

I. MỤC ĐÍCH Ý NGHĨA VÀ NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA CHÍNH SÁCH ỔN ĐỊNH NGHĨA VỤ LƯƠNG THỰC TỪ NAY ĐẾN HẾT KẾ HOẠCH 5 NĂM LẦN THỨ NHẤT

VỀ MỤC ĐÍCH Ý NGHĨA. – Vấn đề này được đặt ra xuất phát từ nguyện vọng chính đáng của hợp tác xã nông nghiệp và nông dân, từ yêu cầu phát triển sản xuất và cải tiến quản lý hợp tác xã nông nghiệp và từ yêu cầu tăng cường công tác quản lý lương thực của Nhà nước.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chính phủ, mấy năm qua nông dân ta đã hăng hái sản xuất và sẵn sàng làm tròn nghĩa vụ lương thực của mình, góp phần tích cực vào công cuộc công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa và cải thiện đời sống của toàn dân. Đồng thời các hợp tác xã nông nghiệp và nông dân rất mong được biết rõ mức nghĩa vụ nộp thuế bán thóc, ngô trong thời gian dài để có thể chủ động bố trí kế hoạch sản xuất và tiêu dùng và yên tâm là nếu tích cực sản xuất được nhiều hơn thì sẽ có thêm lương thực để cải thiện dần đời sống của mình và bán thêm ngoài nghĩa vụ cho Nhà nước với giá khuyến khích, tăng thêm thu nhập.

Về phía Nhà nước, để chủ động bố trí kế hoạch phân phối lương thực cho các nhu cầu của xã hội, cũng cần ổn định được kế hoạch huy động lương thực, trước hết ở nguồn chủ yều là thuế nông nghiệp và mua thóc, ngô, theo nghĩa vụ. Mặt khác, khi hợp tác xã và nông dân đã thông suốt và hưởng ứng chính sách ổn định nghĩa vụ lương thực, thi đua phát triển sản xuất thì Nhà nước không những có cơ sở để hoàn thành mức huy động lương thực theo nghĩa vụ mà còn có điều kiện để vận động các hợp tác xã và nông dân bán thêm thóc, ngô ngoài nghĩa vụ theo giá khuyến khích.

Trước đây trong thời kỳ khôi phục, cải tạo và phát triển kinh tế, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở nông thôn chưa được xác lập thì chưa có điều kiện để ổn định mức nghĩa vụ lương thực. Kế hoạch phân phối lương  thực phải dựa trên kết quả sản xuất từng năm,từng vụ. Vụ mùa năm 1960, khi đặt nghĩa vụ cho nông dân bán một phần lương thực cho Nhà nước, chúng ta cũng chưa có cơ sở để ổn định ngay mức nghĩa vụ đó trong một thời gian đầu, nhất là trong điều kiện vụ chiêm 1960 vừa bị mất mùa nặng. Đến nay, sau năm vụ thi hành chế độ thu thuế và mua thóc, ngô theo nghĩa vụ, chúng ta đã có thể bước đầu nêu lên mức huy động cần thiết và vừa phải theo tinh thần chiếu cố đúng mức đến khả năng sản xuất, nhu cầu của Nhà nước và đời sống của nông dân. Đó là cơ sở thực tiễn để ổn định mức nghĩa vụ lương thục từ nay đến cuối năm 1965.

VỀ NỘI DUNG CHÍNH SÁCH. - Nội dung của vấn đề ổn định mức nghĩa vụ lương thực gồm những điểm chính sau đây:

1. Đối tượng thi hành nghĩa vụ lương thực là các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp và hộ nông dân cá thể. Nghĩa vụ lương thực hiện nay đặt ra với thóc và ngô, bao gồm thuế nông nghiệp và phần thóc, ngô bán theo giá chỉ đạo thu mua trong nghĩa vụ; mà không kể phí thủy lợi và thuế máy kéo vẫn thu bằng lương thực.

2. Mức nghĩa vụ lương thực ổn định sẽ giao theo số lượng tuyệt đối căn cứ vào diện tích, sản lượng, vào nhu cầu chi dùng lương thực của từng địa phương, từng hợp tác xã từng nông hộ, và tham khảo kết quả huy động trong 3 năm qua (1960 -1961 - 1962) là những năm mà quan hệ sản xuất mới ở nông thôn đã được xác lập và bước đầu được củng cố và sản xuất có nhiều vụ thu hoạch bình thường.

3. Mức nghĩa vụ lương thực sẽ ổn định từ nay đến hết kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, để cho khớp với các mặt kinh tế quốc dân khác. Đến cuối năm1965, chúng ta sẽ xuất phát từ tình hình mới và phương hướng, nhiệm vụ của kế hoạch của 5 năm lần thứ hai, để đề ra kế hoạch sản xuất và phân phối lương thực thích hợp.

4. Mức nghĩa vụ lương thực sẽ giao cho cả năm nhưng có chia ra từng vụ chiêm, mùa và chi điều chỉnh trong những trường hợp thật cần thiết, cụ thể như khi mùa màng bị thiệt hại nặng, không bảo đảm nhu cầu tối thiểu của nông dân; hoặc khi tình hình sản xuất có thay đổi lớn (lấy đất làm công trình thủy lợi, xây dựng cơ bản, thay đổi quy mô của tổ của hợp tác xã…)

5. Sau khi đã hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế nông nghiệp và bán thóc, ngô theo nghĩa vụ, hợp tác xã và nông dân được sử dụng số thóc, ngô thừa để dự trữ, tiêu dùng thêm, hoặc bán cho Nhà nước theo giá khuyến khích (cao hơn giá bán trong nghĩa vụ tối đa là 50%) hoặc bán ra ở thị trường nông thôn gần nhất.

6. Với số lương thực huy động được trong nghĩa vụ theo mức ổn định, Nhà nước chưa đủ lực lượng để bảo đảm nhu cầu tối thiểu của Nhà nước và nhân dân hàng năm tăng lên. Vì vậy cần tích cực bổ sung lực lượng lương thực của Nhà nước bằng các nguồn sau đây:

a) Các nông trường quốc doanh có nhiệm vụ đẩy mạnh sản xuất lương thực giao nộp cho Nhà nước mỗi năm một nhiều hơn.

b) Tích cực thu phí thủy lợi và phí cho thuê máy kéo bằng lương thực. Hai loại phí này không tính vào nghĩa vụ vì công tác thủy lợi và cơ giới hóa đang còn ở bước đầu phát triển, chưa ổn định được và không phải nơi nào cũng trả bằng lương thực. Hơn nữa đây là một hình thức trao đổi trực tiếp giữa công nghiệp và nông nghiệp và hai khoản chi này về thực chất nằm trong chí phí sản xuất của hợp tác xã sản xuất nông nghiệp và nông dân.

c) Hội đồng Chính phủ nhấn mạnh cần đặt biệt coi trọng việc vận động các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp và nông dân bán thêm thóc, ngô ngoài nghĩa vụ với giá khuyến khích. Chính sách ổn định nghĩa vụ lương thực khi đã thâm nhập vào quần chúng sẽ có tác dụng đẩy mạnh sản xuất phát triển, đời sống xã viên và nông dân sẽ được cải thiện từng bước và Nhà nước càng có khả năng vận động bán ngoài nghĩa vụ. Mua ngoài nghĩa vụ là một nguồn bổ sung quan trọng cho lực lượng của Nhà nước; nó mở rộng thị trường lương thực xã hội chủ nghĩa, tăng cường khối liên minh công  nông.

Cần nhận thức hết ý nghĩa kinh tế chính trị trên đây để nâng cao ý thức trách nhiệm, theo dõi sát tình hình sản xuất từng vụ và có kế hoạch chu đáo tích cực vận động nông dân ở những nơi mùa màng thu hoạch khá, tiết kiệm tiêu dùng một phần, bán thêm ngoài nghĩa vụ theo giá khuyến khích, tăng thêm thu nhập của nông dân đồng thời cũng tăng thêm lực lượng lương thực của Nhà nước.

d) Hết sức coi trọng việc mua sắn, khoai và hoa màu có chất bột khác. Đây là một nguồn lương thực quan trọng. Nhà nước không đưa khoai sắn vào nghĩa vụ lương thực vì sản xuất chưa ổn định, đang phát triển mạnh, và như thế tuyệt đối không có nghĩa là coi nhẹ việc mua sắn, khoai. Phương hướng để giải quyết vững chắc vấn đề lương thực ở miền Bắc là sản xuất lương thực phải được đẩy mạnh toàn diện đặt biệt chú trọng lúa đồng thời hết sức phát triển hoa màu có chất bột, nhất là các loại hoa màu có sản lượng cao, như khoai riềng, khoai nước. Trước mắt hoa màu phục vụ cho nhu cầu địa phương là chính, vừa dùng làm lương thực bổ sung cho gạo, ngô, vừa làm thức ăn phát triển chăn nuôi gia súc. Mặt khác trên cơ sở phát triển sản xuất, Nhà nước sẽ mở rộng việc thu mua, chế biến hoa màu để bổ sung lực lượng lương thực cung cấp cho nhân dân và kích thích sản xuất phát triển.

c) Cần đẩy mạnh hơn nữa phong trào sản xuất tự túc một phần lương thực và thực phẩm của các cơ quan , xí nghiệp, công trường, trường học, các đơn vị vũ trang và nhân dân không sản xuất nông nghiệp theo hoàn cảnh thích hợp của mỗi nơi để giảm bớt một phần lương thực Nhà nước phải cung cấp.

VỀ CHỈ ĐẠO VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN. – Trong việc chỉ đạo và tổ chức thực hiện chính sách ổn định nghĩa vụ lương thực, khâu quan trọng nhất là phải định mức, giao mức cho các hợp tác xã và hộ nông dân cho sát đúng và mỗi khi tình hình sản xuất có thay đổi lớn, cần điều chỉnh mức kịp thời hợp lý. Muốn thế:

1. Việc có ý nghĩa quyết định là phải giáo dục cho cán bộ, xã viên, trước hết là cán bộ xã, Ban quản trị hợp tác xã, đội trưởng sản xuất thấm nhuần chính sách ổn định, quán triệt cả hai mặt yêu cầu của nông dân và của Nhà nước; động viên mọi người phấn khởi đẩy mạnh sản xuất vì đời sống của mình, của toàn dân và vì yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa. Cần bàn bạc cặn kẽ, có tình có lý, bền bỉ thuyết phục cán bộ và xã viên hết sức tránh hiện tượng kéo tụt năng suất, giấu diện tích, sản lượng, để yêu cầu hạ thấp mức nghĩa vụ ổn định.

Cán bộ các cấp cần khắc phục khuynh hướng một chiều, hoặc chỉ nặng về đời sống nông dân, hoặc chỉ nặng về yêu cầu của Nhà nước, đề cao ý thức bảo đảm cả hai mặt yêu cầu của chính sách

2. Căn cứ để tính toán mức ổn định nghĩa vụ lương thực là diện tích, sản lượng, nhu cầu chi dùng  lương thực của từng địa phương, từng hợp tác xã, từng nông hộ và tham khảo kết quả huy động trong ba năm 1960  - 1961 -  1962. Khi vận dụng trên toàn miền Bắc cũng như ở từng địa phương, nên căn cứ vào sự đánh giá tổng hợp về kết quả thu thuế nông nghiệp và mua thóc, ngô trong từng năm để có hướng sử dụng tài liệu cũ cho tốt; không nên  máy móc lấy mức chia bình quân của ba năm làm mức ổn định, cũng không nên lấy mức huy động cao nhất hoặc thấp nhất làm cơ sở. Đối với hợp tác xã và hộ nông dân, càng không nên tính toán quá chi li, “sa lầy ” vào năng suất, mức ăn như nhiều nơi đã mắc phải.

Thực tiễn công tác lương thực trong ba năm 1960 – 1961 – 1962 cho phép rút ra một số nhận xét chung sau đây:

[...]
12
Quản lý: Công ty TNHH THƯ VIỆN NHÀ ĐẤT Giấy phép thiết lập trang thông tin điện tử tổng hợp trên mạng số ..., do ... cấp ngày ... (dự kiến) Mã số thuế: 0318679464 Địa chỉ trụ sở: Số 15 Đường 32, Khu Vạn Phúc, P. Hiệp Bình Phước, TP. Thủ Đức, TP. HCM, Việt Nam Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ