Thông tư 1086-TTg năm 1956 về biện pháp pháp lý áp dụng trong việc trả lại tự do cho những người bị oan về tội phản động và phá hoại trong giảm tô, cải cách ruộng đất, chỉnh đốn tổ chức do Thủ tướng Chính phủ ban hành

Số hiệu 1086-TTg
Ngày ban hành 18/10/1956
Ngày có hiệu lực 01/11/1956
Loại văn bản Thông tư
Cơ quan ban hành Thủ tướng Chính phủ
Người ký Phan Kế Toại
Lĩnh vực Trách nhiệm hình sự,Thủ tục Tố tụng,Quyền dân sự

THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
********

VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 1086-TTg

Hà Nội, ngày 18 tháng 10 năm 1956

 

THÔNG TƯ

CỦA THỦ TỚNG CHÍNH PHỦ SỐ 1086-TTg  NGÀY 18-10-1956 VỀ BIỆN PHÁP PHÁPLÝ ÁP DỤNG TRONG VIỆC TRẢ LẠI TỰ DO CHO NHỮNG NGƯỜI BỊ OAN VỀ TỘI PHẢN ĐỘNG VÀ PHÁ HOẠI TRONG GIẢM TÔ, CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT, CHỈNH ĐỐN TỔ CHỨC

Kính gửi: Các ông Chủ tịch Uỷ ban hành chính các liên khu, khu, thành phố và tỉnh.

Hội đồng Chính phủ trong phiên họp ngày 29 tháng 9 năm 1956 đã nghị quyết những biện pháp pháp lý áp dụng trong việc trả lại tự do cho những người bị quy oan về tội phản động và phá hoại trong giảm tô, cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức.

Thông tư này giải thích nội dung nghị quyết Hội đồng Chính phủ.

I. PHẠM VỊ ÁP DỤNG NGHỊ QUYẾT:

Nghị quyết Hội đồng Chính phủ áp dụng cho những người bị bắt giam và xét xử về tội phản động, phá hoại trong các cuộc:

- Giảm tô và cải cách ruộng đất.

- Kiểm tra lại cải cách ruộng đất.

- Chỉnh đốn tổ chức

- Phát động quần chúng thành lập khu tự trị và sản xuất ở miền núi.

- Phá sản xuất, chống thuế nông nghiệp, phá thắng lợi của giảm tô và cải cách ruộng đất sau lúc đội rút.

- Những vụ toà án nhân đân đặc biệt chuyển sang toà án nhân dân thường.

- Một số vụ bắt trong cuộc vận động cải cách dân chủ ở nông trường và công trường.

- (Nói chung là những vụ bắt giam và xét xử căn cứ vào tài liệu thu thậpbằng những phương pháp điều tra không đúng như dựa vào lời khai vậy: mớm cung, bức cung, nhục hình).

- Còn những vụ bắt giảm và xét xử về tội cường hào gian ác trong giảm tô và cải cách ruộng đất, những vụ về hình sự thường, về chính trị (cưỡng ép di cư, gián điệp, phá hoại trong các nhà máy, v.v.) mà điều tra khám phá ra bằng phương pháp công an thì không thuộc phạm vi áp dụng của nghị quyết này.

II. BIỆN PHÁP PHÁP LÝ ÁP DỤNG TRONG VIỆC TRẢ LẠI TỰ DO CHO NHỮNG NGƯỜI BỊ BẮT GIAM VÀ BỊ XỬ PHẠT

1. Đối với những người còn bị tạm giam chưa kết án

Hội đồng Chính phủ quyết định:

- Công tố uỷ viên toà án nhân dân tỉnh sẽ xét và ra lệnh trả tự do cho những người bị bắt oan, bất cứ thuộc thành phần nào.

Trong trường hợp đặc biệt có người phạm tội phản động và phá hoại hiện hành mà có chứng cớ rõ ràng thì công tố uỷ viên toà án nhân dân tỉnh sẽ giữ lại để xét thêm.

Việt xét giữ lại phải hết sức thận trọng và do khu duyệt đối với những người thuộc bước một và bước hai nếu trong hồ sơ có một số tội không quan trọng thì cũng trả lại tự do.

2. Đối với cán bộ, gia đình cán bộ, nông dân... đã bị kết án trong các đợt 7,8 giảm tô, 4,5 cải cách ruộng đất và trong chỉnh đốn tổ chức.

Hội đồng Chính phủ quyết định:

- Toà án nhân dân khu sẽ xét và ra lệnh huỷ bỏ những bản án nào mà khi xử đã dựa vào những phương pháp điều tra không đúng.

Trong lúc thi hành, cần chú ý mấy điều sau đây:

Đối với những người thuộc bước một và hai trong chỉ thị Thủ tướng phủ (Cán bộ, gia đình cán bộ, nhân sĩ... nông dân lao động, phú nông) hầu hết toà án nhân dân đặc biệt đã dựa vào những tài liệu thu thập băng phương pháp điều tra không đúng để sử dụng. Cho nên nói chung là huỷ bỏ hết những bản án ấy và trả lại tự do. Trừ những trường hợp rất cá biệt, can phạm có đầy đủ chứng cớ rõ ràng tham gia các vụ phản động và phá hoại quan trọng thì công tố uỷ viên toà án nhân dân khu sẽ giữ lại để xét thêm, còn thì sẽ trả lại tự do cho tất cả bị can một cách dễ dàng.

Việc huỷ bỏ các án này phải làm hết sức nhanh chóng tuần tự theo tứng bước một, hai. Hiện nay những người được ra trong bước một đại đa số là cán bộ hay những người đã có công với cách mạng và kháng chiến bị quy oan là phản động và phá hoại. Yêu cầu cấp thiết của họ là trả lại tự do và danh dự. Cho nên về mặt pháp lý các toà án nhân dân khu chỉ cần xem xét bị can có đúng tiêu chuẩn ở bước một không, phương pháp điều tra có được theo đúng thủ tục không, rồi kết luận ngay và căn cứ nghị quyết Hội đồng Chính phủ ngày 29-9-1956 mà ra lệnh huỷ bỏ các bản án cũ, để trả lại tự do, công quyền, danh dự cho họ, không cần thiết phải đi sâu vào phần xác định tội trạng.

[...]