BỘ
LAO ĐỘNG
******
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
08-LĐTT
|
Hà
Nội, ngày 16 tháng 04 năm 1958
|
THÔNG TƯ
HƯỚNG DẪN VIỆC SẮP XẾP CẤP BẬC CHO CÔNG NHÂN, NHÂN VIÊN KỸ
THUẬT, NHÂN VIÊN HÀNH CHÍNH, QUẢN LÝ XÍ NGHIỆP THUỘC KHU VỰC SẢN XUẤT
BỘ TRƯỞNG BỘ LAO ĐỘNG
Kính gửi:
Đồng kính gửi:
|
- Các Ông Chủ tịch
Ủy ban hành chính khu, thành phố và tỉnh
-
Các Ông Giám đốc Khu, Sở Lao động
-
Các Ông Trưởng ty Lao động các tỉnh
-
Các vị Bộ trưởng các Bộ
|
Thi hành Nghị định số 182-TTg
ngày 07 tháng 04 năm 1958 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành chế độ lương
mới cho công nhân, nhân viên kỹ thuật và hành chính quản lý xí nghiệp trong khu
vực sản xuất.
Tiếp theo Nghị định số 23-LĐ-NĐ
ngày 07 tháng 04 năm 1958 và thông tư số 6-LĐ-TT ngày 07 tháng 04 năm 1958 của
Bộ Lao động về việc sửa đổi bản tiêu chuẩn kỹ thuật của công nhân;
Bộ Lao động ra thông tư này nhằm
mục đích hướng dẫn việc sắp xếp cấp bậc cho công nhân, nhân viên kỹ thuật và
nhân viên hành chính quản lý các xí nghiệp , doanh nghiệp, công trường, nông
trường, lâm trường trong khu vực sản xuất vào các thang lương mới.
A. - PHẠM VI
VÀ ĐỐI TƯỢNG SẮP XẾP VÀO CÁC THANG LƯƠNG MỚI
Kế hoạch Nhà nước đã quy định chỉ
tiêu lao động và chỉ tiêu tiền lương cho các ngành thuộc khu vực sản xuất.
Trong việc thi hành chế độ lương mới và sắp xếp cấp bậc cho công nhân viên vào
các thang lương mới, các Bộ và các ngành sở quan phải căn cứ vào chỉ tiêu lao động
và chỉ tiêu tiền lương của Kế hoạch Nhà nước đã quy định cho khu vực sản xuất.
- Đối tượng được sắp xếp vào các
thang lương mới thuộc khu vực sản xuất:
Tất cả các loại công nhân, nhân
viên kỹ thuật và nhân viên hành chính, quản lý, trong biên chế của Nhà nước hiện
đang sản xuất và công tác trong các xí nghiệp, doanh nghiệp, công trường, nông
trường, lâm trường mặc dù trước đây hưởng theo chế độ lương bán cung cấp (Kháng
chiến) chế độ nguyên lương, chế độ lương khôi phục, trả lương ngày, lương tháng
hay lương khoán không phân biệt Việt kiều, Âu Phi, bộ đội chuyển ngành v.v… nay
điều sắp xếp cấp bậc vào các thang lương mới để áp dụng thống nhất chế độ cấp bậc
lương.
Những công nhân và nhân viên còn
ở trong biên chế nhưng đang nằm bệnh viện điều trị, điều dưỡng, an dưỡng, những
người phải chờ công tác, người được đi học các lớp bổ túc văn hóa, chính trị,
nghiệp vụ, kỹ thuật đều được sắp xếp cấp bậc trong dịp này, nhưng sau khi sắp xếp
sẽ áp dụng cách trả lương theo văn bản riêng quy định lương cho những ngày ngừng
việc và ốm đau.
Những người sau đây không sắp xếp
vào các thang lương mới:
Những người ở chờ không sản xuất
nhưng điều động công tác không đi thì chưa sắp xếp cấp bậc mới, việc sắp xếp sẽ
tiến hành sau khi đã nhận làm công tác (cách trả lương những ngày không sản xuất
sẽ có quy định riêng cho từng trường hợp nghỉ không có lý do).
Những người đi an dưỡng, điều dưỡng,
nghỉ dài hạn, v.v… đã cắt biên chế ở xí nghiệp và hiện đang hưởng chế độ an dưỡng,
điều dưỡng và những người đang đi học đã cắt biên chế ở xí nghiệp của không sắp
xếp vào thang lương mới.
Đối với một số công nhân và nhân
viên tuy làm việc thường xuyên nhưng còn ở ngoài biên chế của xí nghiệp, doanh
nhgiệp, công trường, nông trường, lâm trường thì không sắp xếp vào các thang
lương. Cách trả lương cho công nhân ấy và những công nhân khác làm việc tạm thời
sẽ có văn bản riêng quy định việc trả lương và các chế độ lao động cho công
nhân ngoài biên chế, thuê mượn tạm thời.
B. – NGUYÊN TẮC
VÀ PHƯƠNG CHÂM SẮP XẾP CẤP BẬC CHO CÔNG NHÂN VÀ NHÂN VIÊN
1. NGUYÊN TẮC CHUNG
Dựa trên nguyên tắc cơ bản “Phân
phối theo lao động” mà sắp xếp cấp bậc lương, nhưng phải bảo đảm:
- Mức lương bình quân chỉ đạo của
từng loại xí nghiệp theo chỉ tiêu của Kế hoạch Nhà nước.
- Sự ăn khớp giữa 3 nhân tố:
thang lương, mức lương, tiêu chuẩn kỹ thuật.
a) Đối với công nhân:
Căn cứ vào tiêu chuẩn kỹ thuật
hoặc nội dung công việc.
Căn cứ theo yêu cầu sản xuất thực
tế của xí nghiệp.
Hai điểm trên có liên quan mật
thiết và phải kết hợp với nhau trong khi vận dụng để sắp xếp cấp bậc lương. Ví
dụ: trình độ kỹ thuật của công nhân, yêu cầu của sản xuất thì cao, nhưng không
vì thế mà sắp xếp bậc cho công nhân cao vượt ra ngoài tiêu chuẩn kỹ thuật; ngược
lại trình độ kỹ thuật và khả năng nghề nghiệp của công nhân cao nhưng yêu cầu sản
xuất chưa cần đòi hỏi đến cấp bậc đó mà cứ xếp bậc cao, như vậy sẽ không đảm bảo
mức lương bình quân và cấp bậc bình quân của xí nghiệp.
b) Đối với nhân viên kỹ thuật và
nhân viên hành chính xí nghiệp:
Nhân viên kỹ thuật và nhân viên
hành chính quản lý, là những người không trực tiếp sản xuất ra các sản phẩm như
công nhân mà chỉ là những người chỉ đạo hướng dẫn và giải quyết các vấn đề trên
mặt kỹ thuật (nhân viên kỹ thuật) hoặc chỉ là người lãnh đạo về mặt tổ chức quản
lý và hành chính xí nghiệp (nhân viên hành chính, quản lý). Vì vậy mà kết quả về
số lượng và chất lượng lao động của họ không thể nào biểu thị rõ ràng cụ thể bằng
tiêu chuẩn kỹ thuật như công nhân.
Năm vừa qua đối với nhân viên kỹ
thuật cũng đã đề ra việc làm tiêu chuẩn kỹ thuật đế xếp bậc, nhưng nói chung
các ngành đều không làm được vì tình hình tổ chức và sử dụng cán bộ chưa được ổn
định, thêm vào đó khung bậc ít nên việc sắp xếp bị gò bó gặp nhiều khó khăn.
Trong tình trạng tổ chức bộ máy
và việc sử dụng cán bộ của hiện nay chưa được ổn định, nhất là việc sử dụng khả
năng cán bộ vào công việc thực tế (chưa sử dụng đúng khả năng, chưa biết rõ khả
năng thực tế hoặc khả năng dùng chưa hết v.v…) nên việc xây trả lương theo chức
vụ cũng như việc xây dựng tiêu chuẩn cụ thể về kỹ thuật trong lúc này chưa làm
được, mà chỉ có thể quy định đối tượng, nguyên tắc và phạm vi khung bậc của các
chức vụ để xếp từng loại nhằm giảm bớt tình trạng bất hợp lý cũ.
Vì vậy nguyên tắc sắp xếp cấp bậc
cho nhân viên kỹ thuật và nhân viên hành chính quản lý, dựa vào 3 yếu tố:
- Trình độ và khả năng chuyên
môn,
- Chức vụ hiện giữ và phạm vi
trách nhiệm.
- Tinh thần và kết quả công tác.
Và chuyển bậc từ thang lương cũ
sang thang lương mới nhưng có điều chỉnh những trường hợp bất hợp lý.
Việc xác định cấp bậc cho từng
người căn bản dựa vào chức vụ, khả nămg, yêu cầu công tác phạm vi và trách nhiệm
lớn nhỏ, khó khăn phức tạp nhiều hay ít hiện đang phụ trách, thể hiện trên tinh
thần và kết quả công tác cụ thể. Vấn đề thành tích và lịch sử đấu tranh sẽ có
những chính sách cụ thể để chiếu cố và đãi ngộ về phương diện xã hội và để
cân nhắc trong khi đề bạt, khen thưởng chứ không đặt thành một yếu tố chính để
xét bình cấp bậc lương .
Riêng đối với nhân viên kỹ thuật
cao cấp cũng cần chú ý tham khảo thêm về trình độ kỹ thuật chuyên môn ( thời
gian học tập và đào tạo qua các trường khác nhau) kinh nghiệm và thời gian phục
vụ trong nghề để chiếu cố thích đáng đối với một số người có kảh năng kỹ thuật
cao mà yêu cầu công tác chưa sử dụng hết khả năng của họ.
2. PHƯƠNG CHÂM SẮP
XẾP:
- Tốt, nhanh, gọn có lãnh đạo chặt
chẽ.
- Đảm bảo đoàn kết, đẩy mạnh sản
xuất.
3. PHƯƠNG PHÁP TIẾN
HÀNH:
- Tổ chức Hội đồng xếp lương. Dựa
vào tổ chức Công đoàn, kết hợp dự kiến của lãnh đạo với việc tổ chức lấy ý kiến
tham gia của công nhân và nhân viên giúp cho lãnh đạo sắp xếp được sai đúng
(chú ý không tổ chức bình nghị hoặc tự báo trong công nhân) Thủ trưởng cơ quan,
Giám đốc xí nghiệp quyết định và báo cáo lên cấp trên có thẩm quyền xét duyệt.
4. NHỮNG VẤN ĐỀ CỤ
THỂ:
1. Đối tượng áp dụng các thang
lương và việc sắp xếp cấp bậc cho công nhân:
a. – Những công nhân làm những
công việc mà ở nhiều ngành đều có nay sắp xếp vào các thang lương sau đây:
- Thang lương công nhân cơ khí
xí nghiệp gồm 8 bậc:
Công nhân cơ khí (chế tạo và sửa
chữa máy móc dụng cụ) ở xí nghiệp như: tiện, nguội, rèn, điện v.v… kể cả những
người làm việc trực tiếp trong các giây chuyền sản xuất của công nhân cơ khí
như: vận chuyển nguyên liệu, dụng cụ sản phẩm làm ra trong xí nghiệp không phân
biệt làm việc ở ngành nào, thuộc sản nghiệp nào, đều thống nhất áp dụng thang
lương, mức lương công nhân cơ khí xí nghiệp 8 bậc.
- Thang lương công nhân lái xe vận
tải gồm 7 bậc:
Công nhân lái xe vận tải (hàng
hóa) trong các đơn vị sản xuất kinh doanh thuộc các ngành, các sản nghiệp đều xếp
và hưởng theo thang lương công nhân lái xe vận tải hàng hóa 7 bậc.
Riêng đối với những công nhân
lái xe phục vụ trực tiếp cho việc khai thác mỏ thuộc Bộ Công nghiệp thì hưởng
theo thang lương và mức lương của công nhân cơ khí khai thác không xếp theo
thang lương này.
- Thang lương công nhân xây dựng
cơ bản gồm 7 bậc:
Công nhân chuyên môn xây dựng cơ
bản trên các công trường xây dựng đất, đá, cầu đường và các đội công nhân
chuyên nghiệp xây lắp của các ngành, các sản nghiệp đều xếp và hưởng theo thang
lương, mức lương của công nhân xây dựng cơ bản 7 bậc.
Riêng lao động trên các công trường
thì xếp và hưởng theo thang lương gồm 4 bậc của lao động làm việc trên các công
trường.
Đối với một số thợ nề, thợ mộc…
làm việc trong các xí nghiệp tĩnh tại thì hưởng theo mức lương của công nhân 8
bậc cơ khí xí nghiệp.
- Thang lương công nhân ngành In
gồm 8 bậc:
Công nhân ngành in trong các xí
nghiệp in của các ngành đều xếp và hưởng theo thang lương, mức lương công nhân
in 8 bậc, trừ những công nhân in lẻ tẻ trong các cơ quan thì xếp và hưởng theo
thang lương công nhân cơ quan Nhà nước 8 bậc.
Ngoài những công nhân cơ khí,
lái xe vận tải, xây dựng cơ bản và công nhân ngành in nói trên, có những công
nhân khác thuộc các nghề công nghiệp nhẹ (giấy, dệt, diêm, thực phẩm…) và
các nghề mỏ, địa chất… đều được xếp vào những thang lương riêng của từng ngành
do các Bộ chủ quản ấn định được Bộ Lao động thông qua không xếp vào những thang
lương đã nói trên đây.
Riêng những công nhân làm việc
trong các cơ quan Nhà nước là những thợ chuyên môn như lái xe con (kể cả lái xe
con ở các xí nghiệp) thợ điện, thợ sửa chữa, thợ mộc, thợ nề, những người nấu bếp
và phục phụ ở khách sạn, v.v… nếu làm đúng nghề của mình trong các cơ quan Nhà
nước thì mặc dù là công nhân kỹ thuật, nhưng vì tính chất công việc và điều kiện
lao động khác với xí nghiệp nên xếp và hưởng lương theo thang lương của công
nhân cơ quan Nhà nước 8 bậc quy định riêng, không xếp vào các thang lương công
nhân ở xí nghiệp. (Bộ Nội vụ sẽ hướng dẫn việc sắp xếp cấp bậc cho những công
nhân làm việc trong các cơ quan Nhà nước và thi hành lương mới cùng với khu vực
hành chính sự nghiệp).
Tại các cơ quan Hành chính sự
nghiệp nếu do yêu cầu công việc phải tổ chức những bộ phận sửa chữa máy móc dụng
cụ, có tính chất một phân xưởng nhỏ sử dụng nhiều công nhân cơ khí và đối với
những công nhân sản xuất và sửa chữa máy vô tuyến điện đều được sắp xếp và hưởng
theo thang lương công nhân cơ khí xí nghiệp 8 bậc.
Đối với các nghề nghiệp khác
trong các xí nghiệp thuộc phạm vi quản lý của các Ủy ban Hành chính địa
phương nhưng không thuộc vào Bộ nào như Sở xe điện Hà Nội, thì tùy theo tính chất
sản xuất mà xây dựng thang lương riêng, nhưng phải thông qua Bộ Lao động mới được
thi hành. Còn những xí nghiệp khác như điện, máy nước, vệ sinh, v.v… sẽ xếp vào
các thang lương do các Bộ sở quan ấn định.
b. – Trong lúc sắp xếp cấp bậc
cho công nhân cần chú ý:
Căn cứ vào tiêu chuẩn kỹ thuật
và nội dung công việc của các nghề nghiệp để sắp xếp cấp bậc cho công nhân
nhưng phải theo yêu cầu thực tế của từng nơi, cụ thể là: yêu cầu sử dụng trình
độ kỹ thuật đến mức độ nào, công nhân làm việc gì thì xếp và trả lương theo cấp
bậc làm việc đó.
Đối với những công nhân có trình
độ kỹ thuật cao nhưng chưa sử dụng hết khả năng hoặc sử dụng chưa đúng nghề:
trước hết nên điều động đến nơi khác làm công việc khác để có thể sử dụng hợp
lý khả năng của họ phục vụ cho sản xuất và đãi ngộ thích đáng hơn. Nếu trong xí
nghiệp, trong ngành không giải quyết được thì báo cáo cho Bộ Lao động biết để
điều chỉnh sang ngành khác; trong khi chờ đợi điều chỉnh thì tạm thời xếp bậc
theo yêu cầu sản xuất thực tế của xí nghiệp. Trường hợp cá biệt có xí nghiệp
nào cần công nhân kỹ thuật cao hơn so với yêu cầu sản xuất thường xuyên để giải
quyết những công việc bất thường thì phải báo cáo và phải được Bộ sở quan đồng
ý mới được sắp xếp cấp bậc theo khả năng sẵn có của công nhân.
Để thích hợp với trình độ nghề
nghiệp của công nhân hiện nay khi sắp xếp cấp bậc cho công nhân cơ khí (chế tạo
và sửa chữa máy móc dụng cụ) có thể châm chước một phần nào về phần “hiểu biết”
nhưng về phần “làm được” thì nhất thiết phải theo đúng tiêu chuẩn đã quy định.
Người học việc không được xếp
vào bậc trong các thang lương. Nếu người học việc đã được công nhận chính thức
là thợ và được chuẩn y cho tuyển dụng vào biên chế thì chỉ được xếp vào bậc khởi
điểm của nghề nghiệp đó.
Đối với những người thợ phụ như
phụ rèn, phụ nguội v.v… hoặc những người thợ chưa đạt được tiêu chuẩn của
bậc khởi điểm thì xếp dưới bậc khởi điểm của nghề đó. (Ví dụ: thợ nguội chính
thức khởi điểm bậc 2 thì phụ nguội xếp vào bậc 1).
2. - Đối tượng áp dụng thang
lương và sắp xếp cấp bậc cho nhân viên kỹ thuật
a. - Đối tượng áp dụng thang
lương.
Những người hiện nay đang thực sự
làm công tác chỉ đạo hướng dẫn và giải quyết các vấn đề trên mặt kỹ thuật, cụ
thể là những người đang vận dụng trình độ khả năng kỹ thuật vào những công việc
hàng ngày: làm đố án, thiết kế, thi công, hội họa, nhân viên biên soạn tài liệu
kỹ thuật và giảng dạy các Trường kỹ thuật trong các ngành công nghiệp, kiến
trúc thủy lợi, giao thông vận tải, bưu điện vô tuyến điện, khí tượng, nông lâm,
từ trên các cơ quan Bộ, Cục, Khu, Ty đến các cơ sở sản xuất đều thống nhất hưởng
theo thang lương kỹ thuật 14 bậc (theo 3 loại sản nghiệp).
- Sản nghiệp 1: các loại mỏ than
và các khoán sản khác.
- Sản nghiệp 2: công nghiệp chế
tạo và sửa chữa máy móc dụng cụ giao thông vận tải, kiến trúc xây dựng.
- Sản nghiệp 3: bưu điện vô tuyến
điện, công nghiệp nhẹ, khí tượng, nông lâm, thủy lợi.
Đối với các nhân viên cơ quan
hành chính và các ngành sự nghiệp như y tế, giáo dục, nghệ thuật và các loại nhân
viên có tính chất hành chính trong các ngành sản xuất như: kế hoạch, thống kê,
kế toán giá thành, chế độ, tiền lương v.v… đều không xếp theo thang lương kỹ
thuật.
Đối với những người là nhân viên
kỹ thuật, nhưng đã chuyển sang làm những việc khác có tính chất hành chính. (Ví
dụ: một kỹ thuật canh nông làm Trưởng ty Tài chính) thì xếp theo thang lương
hành chính.
Đối với những người giữ chức vụ
lãnh đạo các bộ phận công tác kỹ thuật nhưng không phải nhân viên kỹ thuật hay
những nhân viên nghiên cứu về phương pháp kế hoạch giảng dạy mà không phải nhân
viên biên soạn tài liệu giảng dạy về kỹ thuật trong cơ quan, các ngành thì cũng
không xếp theo thang lương kỹ thuật mà xếp theo thang lương hành chính quản lý
xí nghiệp hoặc thang lương nhân viên cơ quan Nhà nước.
Các Chánh, Phó Giám đốc Khu và
Trưởng Phó Ty các cơ quan chuyên môn như: Kiến trúc, Giao thông, Nông lâm nếu
là nhân viên kỹ thuật lại phụ trách công tác chỉ dạo kỹ thuật được xếp vào
thang lương kỹ thuật nếu mức lương cấp bậc ở chức vụ hành chính thấp hơn; ngược
lại nếu mức lương của chức vụ hành chính cao hơn mức lương cấp bậc kỹ thuật được
xếp thì hưởng theo mức lương chức vụ hành chính trong thời gian giữ chức vụ đó.
Đối với nhân viên kỹ thuật giữ
các chức vụ về quản lý xí nghiệp, công trường, nông trường, lâm trường như
Chánh, Phó Giám đốc và Quản đốc v.v… nếu mức lương của chức vụ quản lý cao hơn
mức lương của cấp bậc kỹ thuật đã xếp thì cũng hưởng theo mức lương chức vụ quản
lý trong thời gian giữ chức vụ đó ngược lại nếu mức lương của cấp bậc kỹ
thuật đã xếp cao hơn mức lương của chức vụ quản lý thì hưởng theo mức lương của
cấp bậc kỹ thuật.
b. – Khung bậc của nhân viên kỹ
thuật:
Thang lương nhân viên kỹ thuật gồm
14 bậc chia làm 3 khung:
- Khung bậc của nhân viên kỹ thuật
sơ cấp và giúp việc kỹ thuật:
Gồm có 4 bậc từ bậc 1 đến bậc 4.
Yêu cầu để xếp vào khung bậc này tối thiểu trình độ văn hóa lớp 5 hoặc tương
đương, về chuyên môn phải qua trường đào tạo nghiệp vụ từ 1 đến 2 năm khi mới
ra trường được xếp và hưởng lương bậc 1 (khởi điểm chung thang lương 14 bậc)
trong một thời gian tập sự. Hết thời gian tập sự mới được xét và công nhận là
nhân viên kỹ thuật sơ cấp, những người khá sẽ được xét chuyển lên bậc trên (bậc
2).
- Khung bậc của kỹ thuật viên:
Gồm có 8 bậc, từ bậc 4 mđến bậc
11, gối vào khung kỹ thuật sơ cấp 1 bậc. Yêu cầu chung để xếp vào khung bậc này
là tối thiểu trình độ văn hóa lớp 7 hoặc tương đương, về chuyên môn phải qua
trường đào tạo từ 2 đến 3 năm. Trong thời gian tập sự được xếp và hưởng lương bậc
3 trong thang lương 14 bậc, hết thời gian tập sự mới được xét công nhận là kỹ
thuật viên và mới được xếp lương theo mức lương khởi điểm của kỹ thuật viên là
bậc 4.
Đối với kỹ thuật viên nói chung
có 8 bậc để xếp, nhưng đối với kỹ thuật viên giỏi, làm việc lâu năm có nhiều
kinh nghiệm trong nghề (trên dưới 20 năm) và những công nhân cơ khí giỏi (bậc 1
và bậc 2) được đề bạt sang làm nhân viên kỹ thuật thì xếp vào những bậc trên của
khung bậc kỹ thuật viên từ bậc 8, 9, 10 đến 11; còn những kỹ thuật viên mới, thời
gian công tác còn ít, thì xếp vào những bậc từ 7 trở xuống. Đối với kỹ thuật
viên giỏi lâu năm trong nghề, mà một số ngành gọi là “công trình sư” hoặc “công
trình viên” nay thống nhất gọi là kỹ thuật viên và cũng xếp chung vào khung bậc
kỹ thuật viên từ bậc 4 đến bậc 11.
- Khung bậc của kỹ sư:
Gồm có 7 bậc từ bậc 8 đến bậc 14
gói vào khung bậc kỹ thuật viên 4 bậc. Yêu cầu chung để xếp vào khung bậc này
là tối thiểu phải có trình độ văn hóa lớp 10 hoặc tương đương, đã qua lớp đào tạo
nghiệp vụ từ 4, 5 năm trở lên. Trong thời gian tập sự được xếp và hưởng lương bậc
7 thang lương 14 bậc, hết thời gian tập sự mới được xét công nhận chính thức là
kỹ sư và được xếp hưởng theo mức lương bậc khởi điểm của khung bậc kỹ sư là bậc
8.
Tuy vậy hiên nay trong các ngành
có một số cán bộ kỹ thuật cao cấp đào tạo trong nước hoặc ngoài nước, nhưng thời
gian đào tạo ngắn hơn, thì các Bộ và các ngành sở quan sẽ dựa vào quy định trên
đây mà tùy tình hình cụ thể có thể xếp bậc khởi điểm cho những cán bộ này thấp
hơn.
Nói chung nhân viên kỹ thuật mới
ra trường đều phải qua một thời gian tập sự nhất định do từng ngành quy định cụ
thể cho mỗi nghề và thông qua Bộ Lao động. Sau thời gian tập sự xét về tinh thần
và khả năng công tác nếu chưa đủ điều kiện công nhận chính thức thì tùy theo từng
người mà có thể kéo dài thêm thời gian tập sự, do các ngành quy định cụ thể từng
trường hợp khác nhau. Mặt dầu trong thời gian tập sự tùy khả năng khá (có thể
làm được một số việc của bậc trên) thái độ công tác tốt nhưng vẫn phải đảm bảo
hết thời gian tập sự đã quy định mới được công nhận chính thức và chuyển lên bậc.
c. – Việc sắp xếp cấp bậc cho
nhân viên kỹ thuật hưởng theo thang lương mới:
Để đảm bảo được nhanh, gọn,
tránh xáo trộn nhiều ,và có một cơ sở thống nhất chung giữa các ngành; căn cứ
vào nguyên tắc sắp xếp nói trên việc sắp xếp cấp bậc cho nhân viên kỹ thuật hưởng
theo thang lương mới sẽ dựa cấp bậc cũ quy định việc chuyển bậc từ bậc cũ thang
lương 11 bậc, sang bậc mới thang lương 14 bậc và có điều chỉnh những trường hợp
bất hợp lý.
Tùy tình hình cụ thể mỗi Bộ có
thể quy định tiêu chuẩn sắp xếp cấp bậc cho nhân viên kỹ thuật trong ngành mình
và hướng dẫn việc sắp xếp cấp bậc cho từng loại, giúp cho việc xác định cấp bậc
lương được tương đối chính xác hơn.
3. – Đối tượng áp dụng thang
lương và sắp xếp cấp bậc cho nhân viên hành chính quản lý xí nghiệp
- Đối tượng áp dụng thang lương:
Tất cả các nhân viên hành chính
quản lý các xí nghiệp, doanh nghiệp, công trường, nông trường, lâm trường theo
đơn vị hạch toán kinh tế từ Chánh, Phó Giám đốc,Tổng cục, Cục, Chánh, Phó Giám
đốc và Quản đốc các đơn vị sản xuất, Trưởng, Phó phòng nghiệp vụ và hành chính;
Trưởng, Phó ban sản xuất; nhân viên chuyên môn và hành chính như kế hoạch, thống
kê, kế toán giá thành, chế độ, tiền lương, đánh máy, văn thư v.v… và các loại
nhân viên khác như cần vụ, giữ trẻ, gác cổng, cấp dưỡng tập đoàn v.v… đều xếp
và hưởng theo thang lương hành chính quản lý do các ngành tự xây dựng.
- Việc sắp xếp cấp bậc cho nhân
viên hành chính quản lý xí nghiệp:
Trên nguyên tắc sắp xếp cấp bậc
cho nhân viên hành chính quản lý nói trên, để bảo đảm việc làm được tốt, tránh
đảo lộn nhiều, từng ngành sẽ quy định việc chuyển bậc từ thang lương cũ sang
thang lương mới, có điều chỉnh những trường hợp bất hợp lý, nhưng chú ý phải đảm
bảo mức lương bình quân đã ấn định trước.
C. – NGUYÊN TẮC
XÉT DUYỆT VÀ THỜI GIAN THI HÀNH
1. – NGUYÊN TẮC XÉT DUYỆT CHUNG.
Bộ Lao động căn cứ vào chỉ tiêu
tiền lương kế hoạch Nhà nước để cân đối mức lương khởi điểm, tối đa, các thang
lương và mức lương bình quân chung và xét duyệt phương án tiền lương của các
ngành.
Các ngành xét cấp bậc lương cho
các loại công nhân, nhân viên kỹ thuật, hành chính quản lý trong ngành đảm bảo
mức lương bình quân đã ấn định. Riêng đối với nhân viên kỹ thuật cao cầp từ bậc
8 trở lên làm việc trong các cơ quan Nhà nước như Nha, Sở, Cục, Vụ ở các Bộ
trung ương sẽ do Ban Lương duyệt điển hình một số bậc làm mốc để các ngành về tự
xếp và xét duyệt.
Việc xét duyệt trong mỗi ngành sẽ
tùy theo việc phân cấp quản lý cán bộ, công nhân và nhân viên mà Bộ sở quan quy
định quyền hạn, nhiệm vụ xét duyệt cho từng cấp.
Các đơn vị sản xuất kinh
doanh thuộc các Bộ quản lý nằm trong địa phương nào thì đưa lên cơ quan cấp
trên xét duyệt cấp bậc cho cán bộ, công nhân và nhân viên phải thông qua Ủy ban
Hành chính địa phương có ý kiến rồi trực tiếp mang lên cơ quan cấp trên xét duyệt
trong thời hạn 7 ngày sau khi Hội đồng xếp lương của xí nghiệp xét xong.
Đối với các xí nghiệp, doanh nghiệp
thuộc phạm vi của Ủy ban Hành chính địa phương quản lý (như: Nhà máy nước, Sở
xe điện v.v…) việc xét duyệt do Ủy ban Hành chính địa phương chịu trách nhiệm,
nhưng trước khi xét duyệt chung phải xin ý kiến của Bộ sở quan hay ngành dọc cấp
trên về việc xét duyệt một số cán bộ lãnh đạo.
2. - THỜI GIAN THI HÀNH
Tất cả công nhân, nhân viên kỹ
thuật và hành chính, quản lý và cán bộ đoàn thể thoát ly sản xuất như đảng ủy,
công đoàn, thanh niên lao động trong các xí nghiệp, doanh nghiệp, nông trường,
công trường, lâm trường của Chính phủ hưởng chế độ lương mới kể từ ngày mùng 01
tháng 03 năm 1958. Các Bộ, các ngành sử dụng công nhân cần xúc tiến gấp việc sắp
xếp cấp bậc cho công nhân, nhân viên để tránh việc truy lĩnh nhiều tháng, ảnh
hưởng không lợi về các mặt hoạt động kinh tế của Nhà nước.
D. - NHIỆM VỤ
CỦA CÁC CẤP CHÍNH QUYỀN VÀ CÁC NGÀNH SỬ DỤNG CÔNG NHÂN
Việc cải tiến chế độ tiền lương
lần này là một ý nghĩa rất quan trọng, nội dung có nhiều vấn đề, thời gian có hạn;
đồng thời phải tiến hành cùng một lúc với công tác chấn chỉnh tổ chức giảm nhẹ
biên chế hành chính. Các ngành sử dụng công nhân các cấp chính quyền, các
cơ quan Lao động các địa phương, các đơn vị sản xuất kinh doanh cần nhận rõ
trách nhiệm của mình mà thi hành nghiêm chỉnh, khẩn trương đảm bảo thời gian
quy định.
Phải làm cho cán bộ, công nhân
và nhân viên nhận rõ sự cố gắng và sự chăm sóc của Đảng và Chính phủ mà tích cực
thi đua sản xuất, quản lý tốt xí nghiệp thực hành tiết kiệm, tăng cường ý thức
tổ chức và lỷ luật lao động, nâng cao năng suất lao động giảm hạ giá thành,
hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch Nhà nước.
Để đạt mục đích yêu cầu của việc
cải tiến chế độ tiền lương và tăng lương; việc giáo dục cho công nhân, nhân
viên phải làm sâu rộng cho mọi người thấm nhuần chủ trương, chính sách tiền
lương của Đảng và Chính phủ; làm cho mọi người phấn khởi ra sức thi đua sản xuất
và công tác trên tinh thần cần kiệm để xây dựng đất nước.
Sau đây là kế hoạch và nhiệm vụ
chính phải thực hiện, các ngành các cấp sẽ căn cứ cào tình hình cụ thể mà vạch
kế hoạch tiến hành cho chu đáo.
1. – LÃNH ĐẠO TƯ TƯỎNG
VÀ HỌC TẬP
a) Tổ chức học tập cho cán bộ,
công nhân và nhân viên kết hợp với công tác tuyên truyền giải thích rộng rãi về
mục đích yêu cầu phương châm và nội dung cải tiến chế độ tiền lương và tăng
lương, làm cho mọi người thêm tin tưởng và phấn khởi chấp hành được tốt; làm
cho chế độ tiền lương sau khi thi hành có tác dụng thúc đẩy sản xuất.
b) Tăng cường công tác lãnh đạo
tư tưởng chặt chẽ, uốn nắn kịp thời, chống những tư tưởng lệch lạc sau đây:
- Tư tưởng muốn tăng lương nhiều
và nhanh hoặc đòi hỏi cải tiến tiền lương công bằng hợp lý một cách tuyệt đối.
- Tư tưởng bình quân chủ nghĩa,
quan điểm cứu tế, nhìn một mặt về yêu cầu đời sống mà không thấy tiền lương phải
dựa trên cơ sở sản xuất, làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít.
- Tư tưởng cá nhân, cục bộ, bản
vị, chỉ thấy quyền cá nhân trước mắt mà không thấy quyền lợi lâu dài của toàn
thể nhân dân và của bản thân mình.
Đồng thời đề phòng những khuynh
hướng lệch lạc trong cán bộ như: làm qua loa vội vã, hoặc cầu toàn, làm chậm chạp
kéo dài thời gian.
2. – LÃNH ĐẠO TỔ CHỨC
VÀ THỰC HIỆN
a) Tổ chức bộ máy thực hiện tiền
lương :
Một ngành từ trên Bộ trung ương
đến các đơn vị sản xuất, mỗi cấp đều thành lập một Hội đồng xếp lương để lãnh đạo
và thực hiện chế độ tiền lương năm 1958.
- Thành lập Hội đồgn xếp lương của
các đơn vị cơ sở gồm có:
Đại biểu của Giám đốc hay Quản đốc
chủ tọa.
Đại biểu của Đảng ủy xí nghiệp.
Đại biểu của Công đoàn xí nghiệp.
Đại biểu của Đoàn Thanh niên lao
động.
Đại biểu anh chị em công nhân và
nhân viên.
Số đại biểu nhiều hay ít tùy
theo phạm vi xí nghiệp to hay nhỏ mà quy định cho thích hợp.
- Nhiệm vụ của Hội đồng là:
Giúp cơ quan chuyên môn trong việc
tổ chức và lãnh đạo việc học tập : dự kiến và lãnh đạo việc xếp bậc cho tốt
theo đúng chủ trương chính sách và yêu cầu kế hoạch chung.
Thu nhập ý kiến của công nhân,
nhân viên, góp ý kiến để giải quyết những tư tưởng lệch lạc và giải thích những
vấn đề công nhân chưa hiểu rõ, làm cho việc sắp xếp bậc được tốt nhanh gọn, giải
quyết được những thắc mắc của công nhân, viên chức.
Nghiên cứu giúp Giám đốc xí nghiệp
trong việc xếp từng trường hợp cụ thể trước khi đưa lên cấp trên duyệt.
Theo dõi kết quả việc chấp hành chế
độ tiền lương giúp Giám đốc trong việc sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm, bổ
sung cho chính sách.
Mỗi tỉnh và thành phố (kể cả Khu
Hồng Quảng) thành lập một Hội đồng xếp lương thành phần gồm có:
Đại biểu Ủy ban Hành chính làm
Chủ tịch Hội đồng.
Đại biểu Ty Lao động làm thư ký
Hội đồng.
Đại biểu Liên hiệp Công đoàn (Ủy
viên).
Nhiệm vụ của Hội đồng là:
Đôn đốc, kiểm tra, hướng dẫn việc
sắp xếp và xét duyệt cấp bậc cho cán bộ, công nhân và nhân viên của các xí nghiệp,
thuộc địa phương quản lý đảm bảo kế hoạch và thời gian lĩnh lương mới trong khu
vực sản xuất.
Báo cáo kết quả việc thi hành chế
độ lương mới lên Thủ tướng Chính phủ và Bộ Lao động, đồng sao gửi cho Tổng liên
đoàn Lao động Việt Nam để biết.
b) Thực hiện từng bước có kế hoạch,
có chỉ đạo trọng điểm:
Kế hoạch tiến hành chia ra từng
bước có thời gian chỉ đạo chặt chẽ: học tập, sắp xếp và xét duyệt chi thi hành
lương mới.
Mỗi Bộ, mỗi Cục, Sở trong khi
lãnh đạo thực hiện chung phải chọn một đơn vị để chỉ đạo rút kinh nghiệm nhưnh
chỉ có tính chất trọng điểm (làm trước) không phải là thí điểm xong một nơi mới
tiến hành chung toàn bộ.
c) Phương pháp tiến hành:
Về học tập: Học từ trên xuống dưới,
trên trước dưới sau cán bộ phụ trách chuyên môn và cán bộ đoàn thể học trước,
công nhân, nhân viên học sau.
Về sắp xếp cấp bậc:
- Hội đồng xếp lương của xí nghiệp
dự kiến xếp bậc cho cán bộ, công nhân viên theo phương pháp:
Cán bộ phụ trách Ban , Phòng dự
kiến xếp bậc cho công nhân nhân viên trong bộ phận.
Giám đốc dự kiến xếp bậc cho cán
bộ phụ trách từng bộ phận.
Các Cục, Nha v.v… hoặc Bộ trung
ương dự kiến xếp bậc cho cán bộ phụ trách xí nghiệp. Dự kiến xếp bậc phải có
tính toán cụ thể đảm bảo mức lương bình quân cho từng loại xí nghiệp.
- Sau khi đã có dự kiến, Giám đốc
xí nghiệp tập hợp lại, đưa ra Hội đồng lương thảo luận, cân đối, xong đưa xuống
cho từng bộ phận công nhân, nhân viên tham gia ý kiến phát hiện những trường hợp
chưa được hợp lý, giúp đỡ cho cơ quan phụ trách quyết định được chính xác.
- Việc tổ chức lấy ý kiến tham
gia của công nhân, nhân viên phải có lãnh đạo chặt chẽ, phải chuẩn bị tư tưởng
trước cho mọi người, phải làm cho công nhân nắm vững tiêu chuẩn để tham gia ý
kiến đúng đắn vào dự kiến sắp xếp. Cần phải dựa vào Công đoàn và đề cao trách
nhiệm của Công đoàn trong việc thi hành chính sách tiền lương của Đảng và Chính
phủ.
d) Thống kê báo cáo và tổng kết:
Việc theo dõi thực hiện chế độ
tiền lương lần này cần phải mở sổ thống kê theo dõi thường xuyên và hàng tháng
có báo cáo lên cấp trên và Bộ Lao động, chuẩn bị để tiến tới tổng kết việc thi hành
chính sách mới (sẽ có mẫu hướng dẫn riêng).
3. - NHIỆM VỤ
CỦA CƠ QUAN LAO ĐỘNG
- Phối hợp với tổ chức công đoàn
địa phương tổ chức phổ biến và học tập chính sách tiền lương của Đảng và Chính
phủ sâu rộng trong công nhân, cán bộ và nhân viên các xí nghiệp Nhà nước.
- Thường trực Hội đồng xếp lương
ở các thành phố, tỉnh, giúp Hội đồng đôn đốc, kiểm tra hướng dẫn việc sắp xếp cấp
bậc cho cán bộ, công nhân và nhân viên, đảm bảo kế hoạch, thời gian quy định.
Báo cáo và phản ảnh những mắc mứu
khó khăn giúp cho sự lãnh đạo của Bộ được sát đúng và kịp thời.
Thực hiện chủ trương cải tiến chế
độ tiền lương và tăng lương lần này là một công tác rất quan trọng, phức tạp;
nó có quan hệ mật thiết đến đời sống và tư tưởng của cán bộ, công nhân, nhân
viên, ảnh hưởng trực tiếp đến việc đẩy mạnh sản xuất và các mặt kinh tế khác.
Các ngành sử dụng công nhân, các cấp chính quyền, các cơ quan lao động địa
phương và các đơn vị xí nghiệp cần phải kiện toàn các tổ chức phụ trách công
tác lao động tiền lương để đảm bảo việc chấp hành chính sách tiền lương có kết
quả.
Trong khi thi hành thông tư này
nếu có những vấn đề chưa rõ hoặc gặp khó khăn mắc mứu, các ngành, các địa
phương cần báo cáo kịp thời.
|
BỘ
TRƯỞNG BỘ LAO ĐỘNG
Nguyễn Văn Tạo
|