BỘ
TÀI CHÍNH
******
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
03-TC-NN
|
Hà
Nội, ngày 23 tháng 01 năm 1964
|
THÔNG TƯ
HƯỚNG DẪN THI HÀNH THÔNG TƯ 120-TTG NGÀY 30-12-1963 CỦA THỦ
TƯỚNG CHÍNH PHỦ VỀ CHỦ TRƯƠNG ỔN ĐỊNH NGHĨA VỤ THUẾ NÔNG NGHIỆP TRONG BA NĂM
1963, 1964, 1965
Thủ tướng Chính phủ vừa ra Thông
tư số 120-TTg ngày 30 tháng 12 năm 1963 về chủ trương ổn định nghĩa vụ thuế
nông nghiệp trong 3 năm 1963, 1964, 1965.
Dưới đây, Bộ Tài chính giải
thích cụ thể một số điểm trong thông tư nói trên và hướng dẫn một số biện pháp
thi hành.
I. Ý NGHĨA CHỦ TRƯƠNG ỔN ĐỊNH
NGHĨA VỤ THUẾ NÔNG NGHIỆP
Chủ trương ổn định nghĩa vụ thuế
nông nghiệp cùng với chính sách ổn định nghĩa vụ lương thực trong kế hoạch năm
năm lần thứ nhất, được đề ra trước hết là xuất phát từ lợi ích của nông dân, của
sản xuất nông nghiệp, của việc củng cố hợp tác xã nông nghiệp, đồng thời bảo đảm
nhu cầu của Nhà nước về tài chính và lương thực.
Mấy năm trước đây, sản xuất
tăng, đời sống nông dân tăng, nhưng thuế nông nghiệp không tăng. Vài năm trước
mắt, sản xuất có điều kiện phát triển hơn, đời sống nông dân có điều kiện tăng
hơn, nhưng với chủ trương ổn định nghĩa vụ thuế nông nghiệp này, thuế cũng vẫn
không tăng, trong khi Nhà nước phải tập trung vốn để bước đầu xây dựng cơ sở vật
chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Điều đó thể hiện sự chiếu cố thích đáng
của Nhà nước đối với nông dân.
Chủ trương ổn định nghĩa vụ thuế
nông nghiệp cùng với chính sách ổn định nghĩa vụ lương thực sẽ làm cho nông dân
yên tâm phấn khởi sản xuất, cố gắng tăng thêm diện tích, cố gắng tăng năng suất
và sản lượng lương thực, trên cơ sở đó mà có điều kiện cải thiện thêm đời sống
của mình và góp phần tích cực vào công cuộc công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa và
cải thiện đời sống của toàn dân.
II. NỘI DUNG CỤ THỂ
1. Tiếp tục dùng sản lượng ruộng đất
đã định năm 1958 để tính thuế cho đến hết năm 1965:
Sản lượng tính thuế hiện nay là
sản lượng thường niên đã được tuyên bố ổn định từ năm 1958.
Mấy năm qua, thu hoạch thực tế của
các hợp tác xã và nông hộ cá thể đã vượt xa mức sản lượng ổn định năm 1958.
Theo quy định, thì đáng lẽ năm
1961, cần phải điều chỉnh lại sản lượng cho sát với thực tế. Nhưng với chủ
trương ổn định nghĩa vụ thuế nông nghiệp này thì từ nay đến hết năm 1965, vẫn
giữ nguyên sản lượng đã ổn định trong năm 1958 để tính thuế. Đối với những trường
hợp ruộng đất trước đây cùng hạng sản lượng với nhau, nhưng nay do điều kiện
tăng năng suất không giống nhau hoặc chuyển hướng trồng trọt, nên thu hoạch thực
tế có chênh lệch nhau, cũng không đặt vấn đề điều chỉnh lại sản lượng thường
niên tính thuế.
Từ nay đến hết năm 1965, chỉ định
sản lượng lại đối với các loại ruộng đất tăng vụ do có công trình thuỷ lợi, đã
hết hạn miễn thuế. Ở miền núi, các loại ruộng đất tăng vụ vẫn được miễn thuế
theo như quy định trong mười chính sách khuyến khích sản xuất ở miền núi.
2. Tiếp tục tính thuế theo thuế suất
năm 1961 của các hợp tác xã và các nông hộ cá thể cho đến hết năm 1965:
Từ nay đến hết năm 1965, mặc dù
hàng năm, các hợp tác xã cũng như các nông hộ cá thể có sự chuyển dịch, thêm bớt
ruộng đất hoặc tăng giảm nhân khẩu, đều không thay đổi thuế suất. Do đó, đối với
những hợp tác xã hoặc nông hộ cá thể hàng năm không có thay đổi gì về diện
tích, sản lượng tính thuế thì không phải tính thuế lại. Nếu có tăng, giảm diện
tích, sản lượng sẽ căn cứ vào thuế suất đã ổn định mà tính lại thuế.
Cách áp dụng thuế suất có mấy
trường hợp cụ thể như sau:
a) Đối với những hợp tác xã
có thêm hộ mới vào thì cộng số sản lượng tính thuế của các nông hộ mới
gia nhập vào tổng sản lượng tính thuế của hợp tác xã, rồi căn cứ vào thuế suất
bình quân đã ổn định của hợp tác xã mà tính thành thuế.
b) Đối với những nông hộ xã
viên xin ra làm ăn riêng lẻ, thì nói chung là tính thuế làm theo thuế suất
của họ trước khi vào hợp tác xã, mặc dù có thay đổi ruộng đất. Riêng những nông
hộ mà thuế suất trước đây thấp hơn thuế suất bình quân của hợp tác xã hoặc chưa
đến khởi điểm chịu thuế, thì nay phải chịu thuế theo suất bình quân của hợp tác
xã.
Sở dĩ có chủ trương khác nhau đối
với người vào và người ra hợp tác xã như vậy là để thể hiện chính sách ưu đãi hợp
tác xã, khuyến khích lối làm ăn tập thể.
c) Đối với những hợp tác xã
phân chia thành nhiều hợp tác xã nhỏ thì lấy thuế suất bình quân của hợp
tác xã lớn mà tính thuế cho các hợp tác xã nhỏ. Đặc biệt đối với trường hợp sau
khi nhận phân chia, kinh tế của các hợp tác xã nhỏ chênh lệch nhau nhiều, áp dụng
thống nhất một thuế suất của hợp tác xã lớn trước đây không hợp lý, thì Ủy ban
hành chính huyện có thể cho phép tính lại thuế suất cho từng hợp tác xã nhỏ,
nhưng phải đảm bảo không sụt mức thuế chung của hợp tác xã trước khi chia nhỏ.
Cách tính thuế suất là lấy số thuế ghi thu chia cho tổng sản lượng của năm
1961.
d) Đối với những hợp tác xã mới
hợp nhất thì lấy sản lượng, diện tích và thuế ghi thu của các hợp tác xã nhỏ
cộng lại thành diện tích, sản lượng và thuế ghi thu của hợp tác xã lớn. Căn cứ vào
tổng số thuế ghi thu và tổng sản lượng tính thuế của hợp tác xã mới, mà tính ra
thuế suất để áp dụng từ nay về sau (thuế ghi thu chia cho tổng sản lượng tính
thuế).
e) Đối với nông hộ cá thể
cũng vậy, nói chung, không tính lại thuế suất trong thời gian ổn định. Nếu
có những nông hộ trước đây sống chính bằng nghề khác nay mới chuyển sang sản xuất
nông nghiệp, thì lấy thuế suất của hợp tác xã gần nhất (nơi cư trú) để tính thuế,
chứ không tính toán thuế suất cho nông hộ theo biểu thuế luỹ tiến như trước. Tại
những vùng áp dụng điều lệ thuế nông nghiệp miền núi, thì không căn cứ vào thuế
suất sau khi đã trừ miễn trưng của hợp tác xã, mà căn cứ vào tỷ lệ số thuế ghi
thu so với tổng sản lượng thường niên (chưa trừ miễn trưng) của hợp tác xã gần
nhất để tính thuế cho những nông hộ mới thành lập. Nếu có sự phân chia hộ trong
một gia đình, thì lấy thuế suất của hộ gốc để tính thuế cho các hộ mới thành lập.
3. Về diện tích thuế:
Thi hành điểm 3 Thông tư 120-TTg
nói trên, và theo điểm 4 điều lệ thuế nông nghiệp sau cải cách ruộng đất, thì
chỉ những trường hợp sau đây mới được miễn thuế.
- Ruộng đất chưa khai khẩn, ruộng
đất bỏ hoang có lý do chính đáng; vườn ươm giống, trại thí nghiệm về nông nghiệp
và lâm nghiệp của Nhà nước, bãi cát, đồi trọc trồng cây gây rừng để ngăn gió,
ngăn nước v.v… Riêng đối với ruộng đất dùng để gieo mạ, đào giếng, đào mương để
chống hạn (tiểu thuỷ nông) làm gạch, làm ngói, làm đồ gốm, đúc khuôn, sân thể dục
thể thao v.v… thì những diện tích đã được miễn thuế từ năm 1963 trở về trước sẽ
được tiếp tục miễn thuế đến năm 1965.
Như vậy, những diện tích được miễn
thuế không đúng chính sách trước đây phải được đưa vào diện tích tính thuế. Ví
dụ: nếu là ruộng đất chuyên để gieo mạ thường xuyên không trồng cấy thì được miễn
thuế, nhưng nay xác định lại ruộng đất này thực sự có cấy trồng được thì không
thuộc diện tích miễn thuế hoặc là ruộng đất gieo mạ định miễn thuế hai vụ,
nhưng có cấy trồng được một vụ thì chỉ miễn thuế một vụ.
- Ruộng đất đào giếng, mương
phai, đầm hồ hết sử dụng, bị đất bồi lấp đã cấy trồng lại… thì phần diện tích cấy
trồng lại được phải đưa vào tính thuế.
Số diện tích này phải được xác định
cụ thể để từ nay đến hết 1965, dù hợp tác xã hay nông dân gắng sức cấy trồng lại
để sử dụng hợp lý ruộng đất đó, hoa lợi có tăng hơn, hoặc hợp tác xã hay nông
dân thay đổi phương hướng sử dụng, mở rộng thêm diện tích dùng vào việc chuyển
hướng sử dụng đó thì Nhà nước vẫn không tăng hoặc không giảm diện tích tính thuế.
Quy định như vậy là nhằm khuyến khích hợp tác xã và nông dân sử dụng ruộng đất
của mình một cách hợp lý và có lợi nhất.
Trong việc miễn thuế, cần lưu ý:
1. Ruộng đất khai hoang,
phục hồi hoang hoá và tăng vụ thành tập quán, đã đến hạn chịu thuế, thì vẫn áp
dụng những quy định đang thi hành từ trước tới nay, nghĩa là miền núi vẫn áp dụng
Nghị định số 410-TTg ngày 06-09-1957 về mười chính sách khuyến khích sản xuất; ở
miền xuôi thì tiếp tục tính thuế như từ trước tới nay.
2. Ruộng đất do Nhà nước
lấy để làm các công trình kiến thiết chung của Nhà nước hay để làm những công
trình trung, đại thuỷ nông, hoặc hợp tác xã lấy dùng làm sân phơi, nhà kho, thì
được miễn thuế trên diện tích thực sự xây dựng cơ bản không còn trồng trọt được
và phải được cơ quan sử dụng chứng thực số diện tích đã bị sử dụng. Trường hợp
cơ quan hay đơn vị nào sử dụng ít mà chiếm ruộng đất nhiều, hoặc choán đất mà
chưa xây dựng trong phạm vi thời hạn ấn định làm ảnh hưởng không tốt đến sản xuất,
thì cơ quan đó phải chịu trách nhiệm nộp phần thuế trên diện tích đã sử dụng
sai trái đó. Còn diện tích do hợp tác xã làm sân phơi, nhà kho, phải được Ủy
ban hành chính xã xác nhận thực và có ghi vào kế hoạch xây dựng cơ bản của hợp
tác xã.
4. Ổn định mức thuế nông nghiệp phải nộp
bằng lương thực:
Về việc ổn định mức thuế nông
nghiệp phải nộp bằng lương thực, cần phân biệt như sau:
- Đối với những hợp tác xã và
nông hộ cá thể trồng cây lương thực là chủ yếu thì nộp thuế nông nghiệp hoàn
toàn bằng lương thực. Số thuế nông nghiệp phải nộp bằng lương thực sẽ được
tuyên bố ổn định theo số lượng tuyệt đối, dựa vào số thuế ghi thu năm 1963, sau
khi trừ phần thuế trích lại để cho quỹ hợp tác xã (hợp tác xã cấp thấp: miên
xuôi 3%, miền núi 4%; hợp tác xã cấp cao: miền xuôi 5%, miền núi 6%). Đối với
nông hộ cá thể, thì số thuế nông nghiệp phải nộp bằng lương thực được ổn định
là toàn bộ số thuế ghi thu năm 1963.
- Đối với những hợp tác xã và
nông hộ cá thể vừa trồng cây lương thực, vừa trồng cây công nghiệp, rau, hoa…những
năm qua vẫn nộp thuế nông nghiệp bằng lương thực, thì mức ổn định giao căn cứ
vào số thuế đã nộp bằng lương thực trong mấy năm gần đây, nhất là năm 1962. Trường
hợp năm 1962, mức thuế nông nghiệp nộp bằng lương thực giao chưa sát thì phải
điều chỉnh lại cho hợp lý.
- Đối với những hợp tác xã và
nông hộ cá thể trồng cây công nghiệp, rau, hoa… là chủ yếu, thu hoạch về lương
thực quá ít, hàng năm Nhà nước vẫn phải phân phối lương thực thêm theo kế hoạch,
thì không phải nộp thuế nông nghiệp bằng lương thực, mà có thể nộp thuế nông
nghiệp bằng nông sản mà Nhà nước có thu mua, và một phần bằng tiền.
Sau khi mức thuế nông nghiệp nộp
bằng lương thực được tuyên bố ổn định, thì chỉ trong trường hợp những hợp tác
xã nông nghiệp, những hộ nông dân cá thể mà tình hình sản xuất lương thực có
thay đổi lớn hoặc bị mất mùa nặng được miễn giảm thuế nông nghiệp, mới xét cụ
thể và điều chỉnh mức nghĩa vụ nộp bằng lương thực cho sát với tình hình thực tế.
Trường hợp do khai hoang, phục hồi, tăng vụ đến hạn chịu thuế, hay phát hiện
man khai diện tích v.v… thuế có tăng, thì nguyên tắc là căn cứ vào lúc ổn định
mức thuế nông nghiệp, các hợp tác xã hoặc nông hộ thuộc diện nộp thuế theo cách
nào thì nay vẫn nộp thuế theo cách ấy; thí dụ: hợp tác xã A thuộc diện sản xuất
lương thực là chủ yếu, nay phải nộp thêm 50kg thuế về năm sào đất trồng màu mới
phục hồi đến hạn chịu thuế, thì 50kg thuế mới thêm này phải nộp hoàn toàn bằng
lương thực.
Mức thuế nông nghiệp nộp bằng
lương thực ổn định theo lượng tuyệt đối, và chung cho cả năm. Các Ủy ban hành
chính sẽ tuỳ theo tỷ lệ mùa màng của từng địa phương, từng hợp tác xã, và nông
hộ, mà phân phối hợp lý mức phải nộp trong vụ chiêm và vụ mùa.
III. VỀ CHỈ ĐẠO VÀ TỔ CHỨC THỰC
HIỆN
Để thực hiện tốt chủ trương ổn định
nghĩa vụ thuế nông nghiệp, Ủy ban hành chính các khu, thành, tỉnh cần chú trọng
những điểm sau đây:
1. Cần coi trọng đặc biệt
việc giáo dục cho cán bộ và nhân dân, trước hết là cán bộ xã, Ban quản trị hợp
tác xã, xã viên hợp tác xã thấm nhuần chủ trương ổn định nghĩa vụ thuế nông
nghiệp, quán triệt cả hai mặt yêu cầu của nông dân và của Nhà nước, nhận rõ sự
quan tâm chiếu cố của Đảng và Nhà nước đối với nông dân, đồng thời nhận rõ đầy
đủ nghĩa vụ đóng góp của nông dân đối với Nhà nước. Cần gắn liền chủ trương ổn
định nghịa vụ thuế nông nghiệp với chính sách ổn định nghĩa vụ lương thực, với
cuộc vận động cải tiến quản lý hợp tác xã, cải tiến kỹ thuật, nêu rõ sự nhất
trí giữa lợi ích (trước mắt và lâu dài) của Nhà nước và lợi ích của hợp tác xã
và nông dân, động viên mọi người phấn khởi đẩy mạnh sản xuất vì đời sống của
mình, của toàn dân và vì yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá xã hội chủ
nghĩa. Cần bàn bạc cặn kẽ, có tình có lý, thuyết phục cán bộ và xã viên hết sức
tránh hiện tượng dấu diện tích để hạ thấp mức nghĩa vụ nộp thuế nông nghiệp.
Trong các cấp lãnh đạo và các
ngành có liên quan, nhất là ngành tài chính, cần đề phòng tư tưởng cho rằng ổn
định nghĩa vụ thuế nông nghiệp là việc làm đơn giản, không thấy hết các khó
khăn và phức tạp của vấn đề, không thấy đúng mức tình trạng khai man diện tích
tính thuế ở nhiều nơi từ trước đến nay đã làm cho việc đóng góp không được công
bằng, hợp lý và đã gây thất thu cho ngân sách Nhà nước, do đó mà thiếu quyết
tâm trong việc phát hiện và sửa chữa sai sót trước đây để làm cơ sở đúng đắn
cho việc ổn định nghĩa vụ thuế nông nghiệp này.
2. Các Ủy ban hành chính
khu, thành, tỉnh cần lãnh đạo và chỉ đạo chặt chẽ việc thực hiện chủ trương ổn
định nghĩa vụ thuế nông nghiệp, có kế hoạch kết hợp chu đáo với những công tác
quan trọng ở nông thôn hiện nay: sản xuất vụ đông xuân, tiến hành thu mua lương
thực, và các loại nông sản khác v.v… nhất là cần kết hợp với cuộc vận động đẩy
mạnh sản xuất, cải tiến quản lý hợp tác xã, cải tiến kỹ thuật. Cần chú ý thông
qua việc ổn định nghĩa vụ nộp thuế này mà củng cố thêm một bước tài vụ của các
hợp tác xã. Sự chỉ đạo phải thật cụ thể, tích cực, nghiêm chỉnh, kịp thời. Cần
hết sức coi trọng việc kiểm tra, giúp đỡ xã, hợp tác xã để kịp thời biểu dương
người tốt, việc tốt, phổ biến kinh nghiệm, uốn nắn lệch lạc. Mặt khác, cần thường
xuyên báo cáo thỉnh thị để giúp Bộ nắm vững tình hình và chỉ đạo kịp thời công
tác ổn định nghĩa vụ thuế nông nghiệp này.
Các Ủy ban hành chính khu,
thành, tỉnh cần vận dụng các tổ chức chính quyền, các đoàn thể nhân dân, cùng với
Ủy ban hành chính huyện, tập trung lực lượng cán bộ cần thiết xuống tận cơ sở để
bàn bạc với Ủy ban hành chính và cán bộ xã, các hợp tác xã và nông dân, giúp
cho nông dân thông suốt chính sách, chủ trương, chỉ đạo công tác này cho chặt
chẽ và sát đúng với tình hình cụ thể của từng nơi.
Ở mỗi tỉnh, cần tổ chức làm thí
điểm trước một xã để rút kinh nghiệm, và vạch kế hoạch cụ thể tiến hành ở địa
phương. Mặt khác, trong khi thực hiện toàn diện, cần chú ý tổ chức chỉ đạo trọng
điểm để rút kinh nghiệm cho lãnh đạo chung, đồng thời quan tâm theo dõi, đôn đốc,
kiểm tra cho chặt chẽ.
3. Việc lập sổ thuế nông
nghiệp năm 1963 rất quan trọng, vì đó là chỗ dựa để tiến hành thu thuế nông
nghiệp trong các năm 1964, 1965. Làm tốt việc này thì khối lượng công tác thuế
nông nghiệp ở nông thôn trong các năm 1964, 1965 giảm được nhiều, chủ trương ổn
định nghĩa vụ thuế nông nghiệp, ổn định nghĩa vụ lương thực sẽ càng phát huy
tác dụng đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp.
Khâu quan trọng nhất trong
toàn bộ công tác lập sổ thuế, ổn định nghĩa vụ thuế nông nghiệp, là việc xác định
đúng đắn diện tích thuế. Do đó, cần tập trung lãnh đạo, tập trung cán bộ ở
khâu này.
Việc lập sổ thuế nông nghiệp năm
1963 theo các quy định trong thông tư của Thủ tướng Chính phủ, phải làm xong về
căn bản trước Tết âm lịch; nếu nơi nào đã lập xong sổ thuế năm 1963, chưa theo
đúng thông tư nói trên, thì phải thẩm tra và chỉnh lý lại. Song song với việc
hoàn thành việc thu và thanh toán thuế nông nghiệp vụ đông năm 1963, các nơi cần
thống kê nắm vững số thuế năm 1963, nắm vững tình hình từng hợp tác xã, nơi nào
làm tốt, nơi nào chưa tốt, nơi nào có man khai hoặc sai sót về diện tích, nhiều
hay ít, để có sự chỉ đạo trong việc kiểm tra diện tích tính thuế sắp được tốt.
Mặt khác, cần nắm vững số hợp tác xã nộp thuế nông nghiệp hoàn toàn bằng lương
thực, số hợp tác nộp một phần lương thực,một phần bằng tiền, và số hợp tác xã
hoàn toàn nộp bằng tiền, để chuẩn bị cho việc tuyên bố ổn định sắp tới.
4. Cách tiến hành có thể
chia làm mấy bước như sau:
Bước thứ nhất: Tổ chức phổ
biến chủ trương ổn định nghĩa vụ thuế nông nghiệp nhằm làm cho cán bộ lãnh đạo
các cấp cũng như Ban quản trị hợp tác xã, xã viên và nông dân, thông suốt ý
nghĩa và tầm quan trọng của chủ trương này, và động viên hợp tác xã và nông dân
tích cực kê khai đúng diện tích tính thuế và giúp đỡ cán bộ trong việc kiểm
tra, lập sổ thuế được kết quả tốt, để làm cơ sở đảm bảo cho việc động viên đóng
góp được công bằng, hợp lý.
Bước thứ hai: Xác định
thuế suất, sản lượng tính thuế cho từng hợp tác xã và nông hộ cá thể, đi đôi với
việc kiểm tra diện tích tính thuế.
- Xác định thuế suất là nhằm kiểm
tra lại việc tính thuế suất của hợp tác xã và nông hộ cá thể trong năm 1963 xem
có đúng với thuế suất đã tính thuế năm 1961 không và có đúng với những quy định
trong thông tư hướng dẫn này của Bộ không. Nếu thấy thuế suất tính thuế hiện
nay không đảm bảo thuế suất năm 1961 và năm 1962 thì phải kiên quyết sửa lại
cho đúng, không làm qua loa đại khái. Trong việc tính thuế suất, cần tính đến một
số lẻ.
- Xác định sản lượng tính thuế,
chủ yếu là soát lại sản lượng bình quân một éc-ta tính thuế hiện nay xem có đúng
sản lượng bình quân một éc-ta đã tuyên bố ổn định năm 1958 hay không. Nếu có sự
chênh lệch, phải nghiên cứu kỹ, tìm nguyên nhân. Trường hợp sụt sản lượng tính
thuế không có lý do chính đáng, phải kiên quyết sửa lại.
- Về kiểm tra diện tích tính thuế
phải làm hai việc:
a) Kiểm tra diện tích tính thuế,
phát hiện và sửa lại các trường hợp man khai diện tích, hoặc bỏ sót diện tích
tính thuế như: ruộng đất xâm, phụ canh, phục hồi hoang hoá, tăng vụ thành tập
quán đã đến hạn chịu thuế. Những nơi đã đo đạc xong phải tính thuế theo diện
tích mới.
b) Xác định và công bố rõ ràng số
diện tích được miễn thuế từ năm 1963 về trước theo điều 4 của điều lệ thuế nông
nghiệp sau cải cách ruộng đất. Các trường hợp miễn thuế sai phải sửa lại.
Bước thứ ba: Sau khi kiểm
tra diện tích, xác định thuế suất và sản lượng tính thuế xong, Ủy ban hành
chính tỉnh ra quyết định công bố cho từng hợp tác xã hoặc nông dân cá thể: thuế
suất và sản lượng tính thuế bình quân một éc-ta được ổn định từ nay đến năm
1965 và ghi rõ số diện tích ruộng đất gieo mạ, đào giếng, đào mương hai v.v… được
tiếp tục miễn thuế từ nay đến năm 1965.
Trên cơ sở thuế suất, sản lượng
tính thuế được xác định và diện tích tính thuế đã kiểm tra xong, tiến hành lập
sổ thuế năm 1964, và điều chỉnh lại mức thuế bằng lương thực, nếu có sự thay đổi.
5. Thời gian tiến hành ổn
định nghĩa vụ thuế nông nghiệp:
Sau khi Bộ phổ biến thông tư hướng
dẫn này, các tỉnh tổ chức ngay việc làm thí điểm và bố trí kế hoạch tiến hành
phổ biến chủ trương ổn định này ở địa phương, đi đôi với việc đôn đốc hoàn
thành công tác thu thuế nông nghiệp vụ đông năm 1963. Ở những nơi đã kết thúc
thu thuế nông nghiệp vụ đông 1963, có thể tiến hành phổ biến chủ trương ổn định
nghĩa vụ thuế nông nghiệp và tổ chức kiểm tra diện tích tính thuế và xác định
thuế suất, sản lượng tính thuế, lập sổ thuế năm 1964. Chậm nhất là đến đầu
tháng 5-1964, các địa phương phải hoàn thành công tác tuyên bố ổn định nghĩa vụ
thuế nông nghiệp, kể cả việc lập sổ thuế năm 1964, để kịp chuẩn bị tạm thu vụ hạ
1964.
Bộ mong Ủy ban hành chính các
khu, thành, tỉnh nghiên cứu kỹ thông tư này, và tổ chức thực hiện cho có kết quả
tốt.
|
K.T. BỘ TRƯỞNG
BỘ TÀI CHÍNH
THỨ TRƯỞNG
Nguyễn Thanh Sơn
|