Thông tư 03-TC-NN-1964 hướng dẫn thi hành Thông tư 120-TTg-1963 về chủ trương ổn định nghĩa vụ thuế nông nghiệp trong ba năm 1963, 1964, 1965 do Bộ Tài chính ban hành

Số hiệu 03-TC-NN
Ngày ban hành 23/01/1964
Ngày có hiệu lực 07/04/1964
Loại văn bản Thông tư
Cơ quan ban hành Bộ Tài chính
Người ký Nguyễn Thanh Sơn
Lĩnh vực Thuế - Phí - Lệ Phí

BỘ TÀI CHÍNH
******

VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 03-TC-NN

Hà Nội, ngày 23 tháng 01 năm 1964

 

THÔNG TƯ

HƯỚNG DẪN THI HÀNH THÔNG TƯ 120-TTG NGÀY 30-12-1963 CỦA THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ VỀ CHỦ TRƯƠNG ỔN ĐỊNH NGHĨA VỤ THUẾ NÔNG NGHIỆP TRONG BA NĂM 1963, 1964, 1965

Thủ tướng Chính phủ vừa ra Thông tư số 120-TTg ngày 30 tháng 12 năm 1963 về chủ trương ổn định nghĩa vụ thuế nông nghiệp trong 3 năm 1963, 1964, 1965.

Dưới đây, Bộ Tài chính giải thích cụ thể một số điểm trong thông tư nói trên và hướng dẫn một số biện pháp thi hành.

I. Ý NGHĨA CHỦ TRƯƠNG ỔN ĐỊNH NGHĨA VỤ THUẾ NÔNG NGHIỆP

Chủ trương ổn định nghĩa vụ thuế nông nghiệp cùng với chính sách ổn định nghĩa vụ lương thực trong kế hoạch năm năm lần thứ nhất, được đề ra trước hết là xuất phát từ lợi ích của nông dân, của sản xuất nông nghiệp, của việc củng cố hợp tác xã nông nghiệp, đồng thời bảo đảm nhu cầu của Nhà nước về tài chính và lương thực.

Mấy năm trước đây, sản xuất tăng, đời sống nông dân tăng, nhưng thuế nông nghiệp không tăng. Vài năm trước mắt, sản xuất có điều kiện phát triển hơn, đời sống nông dân có điều kiện tăng hơn, nhưng với chủ trương ổn định nghĩa vụ thuế nông nghiệp này, thuế cũng vẫn không tăng, trong khi Nhà nước phải tập trung vốn để bước đầu xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Điều đó thể hiện sự chiếu cố thích đáng của Nhà nước đối với nông dân.

Chủ trương ổn định nghĩa vụ thuế nông nghiệp cùng với chính sách ổn định nghĩa vụ lương thực sẽ làm cho nông dân yên tâm phấn khởi sản xuất, cố gắng tăng thêm diện tích, cố gắng tăng năng suất và sản lượng lương thực, trên cơ sở đó mà có điều kiện cải thiện thêm đời sống của mình và góp phần tích cực vào công cuộc công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa và cải thiện đời sống của toàn dân.

II. NỘI DUNG CỤ THỂ

1. Tiếp tục dùng sản lượng ruộng đất đã định năm 1958 để tính thuế cho đến hết năm 1965:

Sản lượng tính thuế hiện nay là sản lượng thường niên đã được tuyên bố ổn định từ năm 1958.

Mấy năm qua, thu hoạch thực tế của các hợp tác xã và nông hộ cá thể đã vượt xa mức sản lượng ổn định năm 1958.

Theo quy định, thì đáng lẽ năm 1961, cần phải điều chỉnh lại sản lượng cho sát với thực tế. Nhưng với chủ trương ổn định nghĩa vụ thuế nông nghiệp này thì từ nay đến hết năm 1965, vẫn giữ nguyên sản lượng đã ổn định trong năm 1958 để tính thuế. Đối với những trường hợp ruộng đất trước đây cùng hạng sản lượng với nhau, nhưng nay do điều kiện tăng năng suất không giống nhau hoặc chuyển hướng trồng trọt, nên thu hoạch thực tế có chênh lệch nhau, cũng không đặt vấn đề điều chỉnh lại sản lượng thường niên tính thuế.

Từ nay đến hết năm 1965, chỉ định sản lượng lại đối với các loại ruộng đất tăng vụ do có công trình thuỷ lợi, đã hết hạn miễn thuế. Ở miền núi, các loại ruộng đất tăng vụ vẫn được miễn thuế theo như quy định trong mười chính sách khuyến khích sản xuất ở miền núi.

2. Tiếp tục tính thuế theo thuế suất năm 1961 của các hợp tác xã và các nông hộ cá thể cho đến hết năm 1965:

Từ nay đến hết năm 1965, mặc dù hàng năm, các hợp tác xã cũng như các nông hộ cá thể có sự chuyển dịch, thêm bớt ruộng đất hoặc tăng giảm nhân khẩu, đều không thay đổi thuế suất. Do đó, đối với những hợp tác xã hoặc nông hộ cá thể hàng năm không có thay đổi gì về diện tích, sản lượng tính thuế thì không phải tính thuế lại. Nếu có tăng, giảm diện tích, sản lượng sẽ căn cứ vào thuế suất đã ổn định mà tính lại thuế.

Cách áp dụng thuế suất có mấy trường hợp cụ thể như sau:

a) Đối với những hợp tác xã có thêm hộ mới vào thì cộng số sản lượng tính thuế của các nông hộ mới gia nhập vào tổng sản lượng tính thuế của hợp tác xã, rồi căn cứ vào thuế suất bình quân đã ổn định của hợp tác xã mà tính thành thuế.

b) Đối với những nông hộ xã viên xin ra làm ăn riêng lẻ, thì nói chung là tính thuế làm theo thuế suất của họ trước khi vào hợp tác xã, mặc dù có thay đổi ruộng đất. Riêng những nông hộ mà thuế suất trước đây thấp hơn thuế suất bình quân của hợp tác xã hoặc chưa đến khởi điểm chịu thuế, thì nay phải chịu thuế theo suất bình quân của hợp tác xã.

Sở dĩ có chủ trương khác nhau đối với người vào và người ra hợp tác xã như vậy là để thể hiện chính sách ưu đãi hợp tác xã, khuyến khích lối làm ăn tập thể.

c) Đối với những hợp tác xã phân chia thành nhiều hợp tác xã nhỏ thì lấy thuế suất bình quân của hợp tác xã lớn mà tính thuế cho các hợp tác xã nhỏ. Đặc biệt đối với trường hợp sau khi nhận phân chia, kinh tế của các hợp tác xã nhỏ chênh lệch nhau nhiều, áp dụng thống nhất một thuế suất của hợp tác xã lớn trước đây không hợp lý, thì Ủy ban hành chính huyện có thể cho phép tính lại thuế suất cho từng hợp tác xã nhỏ, nhưng phải đảm bảo không sụt mức thuế chung của hợp tác xã trước khi chia nhỏ. Cách tính thuế suất là lấy số thuế ghi thu chia cho tổng sản lượng của năm 1961.

d) Đối với những hợp tác xã mới hợp nhất thì lấy sản lượng, diện tích và thuế ghi thu của các hợp tác xã nhỏ cộng lại thành diện tích, sản lượng và thuế ghi thu của hợp tác xã lớn. Căn cứ vào tổng số thuế ghi thu và tổng sản lượng tính thuế của hợp tác xã mới, mà tính ra thuế suất để áp dụng từ nay về sau (thuế ghi thu chia cho tổng sản lượng tính thuế).

e) Đối với nông hộ cá thể cũng vậy, nói chung, không tính lại thuế suất trong thời gian ổn định. Nếu có những nông hộ trước đây sống chính bằng nghề khác nay mới chuyển sang sản xuất nông nghiệp, thì lấy thuế suất của hợp tác xã gần nhất (nơi cư trú) để tính thuế, chứ không tính toán thuế suất cho nông hộ theo biểu thuế luỹ tiến như trước. Tại những vùng áp dụng điều lệ thuế nông nghiệp miền núi, thì không căn cứ vào thuế suất sau khi đã trừ miễn trưng của hợp tác xã, mà căn cứ vào tỷ lệ số thuế ghi thu so với tổng sản lượng thường niên (chưa trừ miễn trưng) của hợp tác xã gần nhất để tính thuế cho những nông hộ mới thành lập. Nếu có sự phân chia hộ trong một gia đình, thì lấy thuế suất của hộ gốc để tính thuế cho các hộ mới thành lập.

3. Về diện tích thuế:

Thi hành điểm 3 Thông tư 120-TTg nói trên, và theo điểm 4 điều lệ thuế nông nghiệp sau cải cách ruộng đất, thì chỉ những trường hợp sau đây mới được miễn thuế.

- Ruộng đất chưa khai khẩn, ruộng đất bỏ hoang có lý do chính đáng; vườn ươm giống, trại thí nghiệm về nông nghiệp và lâm nghiệp của Nhà nước, bãi cát, đồi trọc trồng cây gây rừng để ngăn gió, ngăn nước v.v… Riêng đối với ruộng đất dùng để gieo mạ, đào giếng, đào mương để chống hạn (tiểu thuỷ nông) làm gạch, làm ngói, làm đồ gốm, đúc khuôn, sân thể dục thể thao v.v… thì những diện tích đã được miễn thuế từ năm 1963 trở về trước sẽ được tiếp tục miễn thuế đến năm 1965.

Như vậy, những diện tích được miễn thuế không đúng chính sách trước đây phải được đưa vào diện tích tính thuế. Ví dụ: nếu là ruộng đất chuyên để gieo mạ thường xuyên không trồng cấy thì được miễn thuế, nhưng nay xác định lại ruộng đất này thực sự có cấy trồng được thì không thuộc diện tích miễn thuế hoặc là ruộng đất gieo mạ định miễn thuế hai vụ, nhưng có cấy trồng được một vụ thì chỉ miễn thuế một vụ.

- Ruộng đất đào giếng, mương phai, đầm hồ hết sử dụng, bị đất bồi lấp đã cấy trồng lại… thì phần diện tích cấy trồng lại được phải đưa vào tính thuế.

[...]